Tội Ác Bùi Ðình Thi
Tại Trại Tù Thanh Cẩm - Phần II
Gặp lại "cố nhân":
Cho tới những tháng đầu của năm
1979, chúng tôi vẫn chưa được phép liên lạc với gia dình nên không có tiếp
tế. Cuộc sống thiếu thốn về vật chất và những khổ ải mà cuộc sống tại nhà
kiên giam đem lại đã làm cho một số anh em bị sa sút cả thể xác lẫn tinh
thần. Cái đói nó hành hạ thân xác chúng tôi một cách triền miên. Với khẩu
phần 9 kg khoai sắn một tháng mà sống còn được thì phải coi là phép lạ.
Thái độ của bọn Công an áo vàng và 2 tên tù áo xanh tay sai làm cho chúng
tôi lúc nào cũng ngột ngạt khó thở. Chúng tôi sống mà không có gì trước
mắt để hy vọng.
Nói chung, các anh em tù chính trị
miền Nam bị đưa ra giam tại miền Bắc, không ai biết được ngày mai sẽ ra
sao cả. Riêng số anh em thuộc nhóm 48 Quyết Tiến chúng tôi từ "Cổng
Trời" về đây đều biết rõ số phận của chúng tôi đã được nhà cầm
quyền CS định như thế nào rồi. Họ không dám giết chúng tôi, nhưng tìm cách
làm cho chúng tôi chết lần chết mòn trong ngục. Trước tình trạng như vậy,
mỗi anh em có cách suy nghĩ khác nhau. Ða số an phận và để mặc cho số mệnh
dưa đẩy tới đâu thì tới. Một vài người cố lập công với VC để được về sớm
bằng cách làm mật báo sinh hoạt của anh em đồng cảnh trong buồng và trong
đội, nịnh hót đám cán bộ. Có anh đã bày ra chuyện lếu láo hại anh em. Một
số khác nghĩ rằng phải tìm cách thoát ra khỏi trại mới mong sống còn,
trong đó có tôi. Chúng tôi đều biết rõ trại Thanh Cẩm nằm trên một ốc đảo,
chung quanh núi sông bao bọc, đường ra là độc đạo, nên thoát ra khỏi chốn
này không phải là chuyện dễ dàng. Mấy anh Tàu "gián điệp" bị
giam ở nhà kỷ luật, rất giỏi về phương hướng và mưu sinh, nhưng lần nào
thoát ra cũng bị bắt lại. Tuy nhiên, trong số tù hình sự trốn trại mà
chúng tôi biết từ ngày đến trại Thanh Cẩm, cũng có vài người thoát được.
Như vậy việc trốn khỏi trại Thanh Cẩm không phải là hoàn toàn vô vọng.
Chúng tôi biết nếu bị bắt lại, chúng tôi sẽ bị đối xử dã man, nhưng trong
cảnh khốn cùng, tôi nghĩ rằng phải chấp nhận mọi rủi ro.
Ðầu năm 1979, chiến tranh Việt -
Trung tới điểm cao, đêm đêm cái loa của đài phát thanh trong trại vang lên
inh ỏi tin tức chiến sự và những lời chửi bới Trung Quốc. Tiếng chửi cứ ra
rả ngày đêm rót vào tai chúng tôi. Họ dùng đủ mọi kiểu và mọi hình thức để
chửi, từ tin tức, bình luận, kịch nghệ, đến âm nhạc! Tôi ngạc nhiên không
hiểu tại sao các thợ viết kịch của chế độ đã sáng tác được những vỡ kịch
chửi Trung Quốc nhanh và hay đến thế! Những khẩu hiệu "Trung Quốc vĩ
đại" hay "Núi liền núi, sông liền sông" đã hô hào
mấy chục năm qua, nay không còn nữa.
Cuộc sống của tôi đang đều đều trôi
qua một cách nặng nề như thế thì một ngày kia, vào khoảng tháng 2/79, có
phái đoàn Cục Cảnh Sát vào thăm khu kiên giam trong giờ cho ăn trưa. Phái
đoàn chừng bốn năm người, mặc áo sơ-mi trắng ngắn tay bỏ ra ngoài quần,
vai mang sắc-cốt, mới nhìn qua trông như một tốp thợ sửa điện hay mấy ông
thợ thiến lợn mà lúc còn nhỏ tôi thường thấy đi vào làng thiến heo. Họ chỉ
chỏ nói năng gì đó với ông Trại Trưởng. Ông có vẻ khép nép khi nói năng.
Nhìn thái độ của ông ta đối với mỗi phái đoàn khi đến thăm, chúng tôi có
thể đoán được tầm quan trọng của từng phái đoàn. Thỉnh thoảng có những
phái đoàn khác nhau vào thăm trại nhưng không phải lần nào Trại Trưởng
cũng hướng dẫn, có khi chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ đi theo, khi đó tôi biết
ngay đó là phái đoàn "dỏm".
Như thường lệ, sau khi Bùi Ðình Thi
mở cửa buồng, chúng tôi ra ngoài, người lấy cơm, kẻ quét tước dọn dẹp...
Nhưng hôm nay, mọi chuyện được làm trong bầu không khí yên tịnh và trang
nghiêm khác với ngày thường vì đang có phái đoàn của Cục quan sát. Lấy
thức ăn xong, chúng tôi phải vào buồng ngaỵ Trong lúc anh em đang chia
thức ăn với nhau trong buồng, nhìn ra ngoài tôi chợt thấy một người cao
lớn mặc sắc phục Công an đi vào sân. Tôi giật mình khi nhận ra đó là Ðại
tá Hoàng Thanh, một thứ "khắc tinh" của tôi từ nhiều năm
qua. Tôi lẩm bẩm một mình: "Gặp lại "cố nhân" nữa rồi!"
Ðại tá Hoàng Thanh làm Cục Trưởng
Cục Cảnh Sát thuộc Bộ Nội Vụ, lúc ấy khoảng ngoài 50, người cao lớn dềnh
dàng nhưng không mập, lưng tôm, mặt bẹt, đôi gò má nhô lên cao, miệng
rộng, các kẽ răng đen sì, có lẽ vì thuốc lào và chè (trà) đặc. Ðiểm trái
ngược trên khuôn mặt rộng bèn bẹt này là cặp mắt ti hí, thật nhỏ và tròn
như loài chồn cáo, lúc nào cũng liếc qua liếc lại. Cho dù có thiện ý đến
đâu tôi cũng không thể hình dung được một sự lương thiện tối thiểu nào ẩn
nấp đằng sau đôi mắt ấy. Tôi đã từng chạm mặt với Hoàng Thanh nhiều lần ở
trại Nam Hà trước khi bị đi "Cổng Trời". Khi nói chuyện với
tôi, thỉnh thoảng ông ta có cười bằng miệng, còn đôi mắt không dự phần
chút nào vào tiếng cười ấy. Tôi vẫn ngại tiếng cười của ông ta, nó được
phát ra qua kẽ răng khép kín tạo thành một hơi gió như tiếng rít của loài
rắn lục trong đêm. Dưới cái nhìn của tôi, Hoàng Thanh là một mẫu cán bộ VC
điển hình, được sinh ra đời chỉ để làm cán bộ VC, hay ngược lại nếu không
có VC thì con người ấy đã không được sinh ra đời làm người, tuy có một
điểm hơi khác các hình vẽ cán bộ VC ở miền Nam một chút, đó là thiếu hàm
răng vẩu.
Hoàng Thanh dừng lại nói gì đó với
cán bộ trực trại một lúc rồi đi thẳng tới cửa buồng 1. Tôi đoán là ông ta
đọc bảng tên 5 người dán trên cửa sắt và thấy những tên nào đó được ông
chú ý. Linh tính báo cho biết là sắp có chuyện liên hệ đến tôi, nên tôi lo
chuẩn bị tinh thần, vì từ trước tới nay, chưa lần nào gặp tôi mà Hoàng
Thanh để tôi yên bao giờ. Tôi đoán không sai, ông ta vẫy tay gọi Bùi Ðình
Thi lại mở cửa buồng. Nghe tiếng chìa khóa lách cách, trong buồng ngưng
chia thức ăn và ngồi cả lên bệ nằm xi măng. Cửa buồng mở ra, ông ta bước
vào và đi dọc theo lối đi ngắn trước mặt chúng tôi. Sau khi lên tiếng chào
cán bộ theo quy định của trại, chúng tôi ngồi yên. Ông ta bước chậm rãi, 2
tay chấp ra sau mông và nhìn thẳng vào mặt từng người chúng tôi như một
ông tướng đang duyệt qua trước hàng quân. Bầu không khí trong phòng nặng
nề và căng thẳng. Khi tới cửa cầu tiêu ông ta quay trở ra. Tôi mừng thầm
nghĩ bụng chắc như vậy là xong, lần này chẳng có việc gì xảy ra. Nhưng bất
ngờ ông ta quay lại chỉ thẳng vào tôi và hất hàm hỏi bằng cái giọng khàn
khàn quen thuộc:
- Anh mang kính ngồi trong cùng kia
có phải là anh Nguyễn Hữu Lễ không?
- Báo cáo cán bộ, đúng, tôi là
Nguyễn Hữu Lễ.
Ông ta nhếch mép cười, vẫn tiếng
cười cố hữu mà tôi e ngại, nhẹ nhàng nói:
- Tôi cũng định hôm nào rảnh mời anh
lên để chúng ta nói lại một chút về vụ tàu Sông Hương, anh Lễ nhé!
Nói xong ông ta bỏ đi ra, không đợi
tôi trả lời. Lúc ấy tôi ngồi lặng yên và bàng hoàng khi nghe Hoàng Thanh
nhắc tới vụ tàu Sông Hương. Tôi nghĩ bụng: "Thế là tên cáo già này
chưa buông tha mình".
Tôi không kể lại vụ tàu Sông Hương ở
đây vì đó là câu chuyện rất dài và nhiều chi tiết. Tôi xin chỉ nói vắn tắt
rằng đây là vụ dự mưu đánh cướp tàu Sông Hương chở 1200 tù binh chúng tôi
từ Nam ra Bắc vào đầu tháng 4/1977. Kế hoạch này do tôi và anh Dương Văn
Lợi chủ trương với một số đông bạn tù tham dự, nhưng mọt cơn bão trái mùa
buộc chúng tôi phải bỏ cuộc. Cán bộ trên tàu không hay biết chuyện này,
nhưng khi ra miền Bắc và vào trại Nam Hà, các tên "ăng-ten"
đã báo cáo với trại. Tôi đã nhiều phen điêu đứng về vụ này. Ðại tá Hoàng
Thanh đã nhiều lần từ Hà Nội về Nam Hà hạch sách tôi, vì ông ta cũng có
mặt trên tàu Sông Hương và là đại diện của Bộ Nội Vụ từ Bắc vào Nam nhận
số tù nhân trong chuyến đó. Vụ tàu Sông Hương cũng là nguyên nhân chính
khiến 20 anh em chúng tôi ở trại Nam Hà bị đày lên "Cổng Trời".
Tôi có ghi lại chi tiết các việc này trong Bút Ký "Tôi Phải Sống",
trong đó có nói về vai trò của anh Dương Văn Lợi. Sau khi được phóng thích
vào năm 1980, kỹ sư Dương Văn Lợi cũng đã làm điên đầu bọn VC qua vụ đánh
cướp thành công chiếc trực thăng của Bộ Chính Trị ngay tại sân bay Nội
Bài, Hà Nội, bay sang Trung Quốc. Tại đây anh ta từ chối lời mời gọi hợp
tác lập chính phủ lưu vong của Hoàng Văn Hoan và vượt biển trốn sang Phi
Luật Tân, rồi xin sang định cư tại Pháp. Hiện nay anh là Chủ Tịch Hội Bạn
Cựu Tù Nhân Chính Trị tại Pháp. Tác phẩm "Hà Nội Báo Ðộng Ðỏ" của anh đã
được dịch ra tiếng Pháp, gây sự nể phục nơi chính giới Pháp và Âu Châu.
Anh Dương Văn Lợi là một người tranh đấu không mệt mỏi, theo đúng tinh
thần của "Nhóm 48 Quyết Tiến". Trong năm qua, anh đã cho ra đời tờ báo "Ý
Dân" tại Paris làm phương tiện đấu tranh cho tự do và nhân quyền tại VN.
Cuộc vượt ngục đẫm máu
Tối hôm đó tôi cảm thấy một sự bất
an ở trong lòng sau cuộc chạm mặt bất ngờ với Hoàng Thanh. Tôi bàn riêng
với anh Ðặng Văn Tiếp, một người anh kết nghĩa với tôi, về thái độ của
Hoàng Thanh. Chúng tôi đều nghĩ rằng một viễn ảnh đen tối đang chờ đợi
tôi. Những ngày tiếp theo, cả 2 anh em tôi bàn đi tính lại với nhau và
thấy không còn cách nào hơn là vượt ngục. Nếu thoát được, cuộc đời của tôi
sẽ có nhiều thay đổi. Nếu không thoát được, tôi cũng chỉ phải đi tiếp con
đường mà những người cầm đầu ở Bộ Nội Vụ đã quyết định cho tôi.
Anh Ðặng Văn Tiếp nguyên là Thiếu tá
Không Quân của QLVNCH, sau đó giải ngũ và ứng cử Dân biểu Quốc hội đơn vị
Tân Bình, Gia Ðịnh và giữ chức vụ Dân biểu cho tới 30/4/75. Anh thuộc phe
đối lập trong Quốc hội. Tôi có gặp anh một vài lần khi hoạt động trong
Phong trào Chống tham nhũng của linh mục Trần Hữu Thanh. Vào tù, chúng tôi
gặp nhau ở trại "Cổng Trời", anh bị đày từ trại Hà Tây đến
trại này trước tôi vài tháng. Lúc bấy giờ anh là một trong những người mà
tôi mến phục vì anh là người có tư cách đàng hoàng, hiểu biết rộng, từng
trải và có khí phách hiên ngang. Anh với tôi cũng có một điểm tương đồng
là đều quan niệm rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải tỏ ra kiên
cường và bất khuất, không hàng phục. Từ một số điểm tương đồng và luôn có
thái độ tương kính nhau, chúng tôi dần dần đi đến chỗ thân thiết nhau và
kết nghĩa anh em. Tôi nhận Tiếp là anh vì anh lớn hơn tôi đúng 10 tuổi.
Con người ấy cũng thường tỏ ra quan tâm đến mẹ già và người tình của anh.
Anh hay nói chuyện với tôi về người mẹ mà anh rất yêu quý và những kỷ niệm
thật đẹp giữa anh và chị Huyền Thanh, người mà anh đã chuẩn bị cưới làm
vợ.
Từ ngày bị đưa đi đày ở trại
"Cổng Trời", 2 chúng tôi đều nghĩ rằng chỉ có một cách duy nhất để
sống còn là vượt ngục, vì chúng tôi biết nhà cầm quyền CS đã quyết định
chúng tôi phải chết lần chết mòn trong trại tù. Câu nói ngắn gọn của Ðại
tá Hoàng Thanh càng tô đậm thêm cái tương lai đen tối của tôi. Ý định vượt
ngục luôn lảng vảng trong đầu óc chúng tôi, có khi rất thúc bách. Chúng
tôi đều biết rằng vượt ngục là đi vào cõi chết để tìm cái sống và tôi đã
từng chứng kiến cái giá mà những người vượt ngục thất bại đã phải trả như
thế nào. Nhưng chúng tôi thấy không có cách nào khác hơn là phải chấp nhận
cái giá đó.
Ðang ở nhà kiên giam mà dự tính vượt
ngục là một chuyện quá khó khăn. Phá được cửa phòng để ra thì còn phải
vượt ra hàng rào của khu kiên giam, sau đó mới tìm cách vượt ra bức tường
cao và dày chung quanh trại. Tường nhà kiên giam dày và kiên cố, rất khó
phá, trong khi chúng tôi không được giữ bất cứ thứ gì bằng kim loại trong
buồng. Có quá nhiều vấn đề phải giải quyết trước khi bắt tay vào việc này.
Trước tiên là phải làm sao để tất cả 6 người trong phòng đều dồng ý. Người
nào yếu quá, không thể vượt qua các tường rào cao và kiên cố, phải làm sao
bảo đảm cho họ ở lại mà không bị hành hạ, ngược đãi. Giải quyết xong khâu
này mới tính đến các khâu tiếp theo được. Tôi và anh Tiếp đã phải thăm dò
tư tưởng của từng người, rào trước đón sau rồi mới dám gợi ý, vì nhỡ có
anh nào không đồng ý và báo cáo cho cán bộ để lập công thì lúc đó tai họa
sẽ không lường được.
Trong buồng chúng tôi lúc bấy giờ
ngoài anh Tiếp và tôi ra còn có các anh sau đây:
- Anh Nguyễn Sĩ Thuyên, đã ngoài 50
tuổi, giáo sư dạy Toán.
- Anh Trịnh Tiếu, khoảng 45 tuổi,
Ðại tá Quân lực VNCH, Trưởng phòng 2 Quân đoàn 2.
- Anh Lâm Thành Văn, 40 tuổi, dân
sự, lái xe hành khách Saigon Ðà Lạt, bị bắt vì tham gia tổ chức Phục Quốc.
- Linh mục Nguyễn Công Ðịnh, 45
tuổi, Tuyên úy Quân đội Cần Thơ.
- Tôi là người trẻ nhất, lúc đó mới
36 tuổi và anh Tiếp, 46. Anh tuổi con gà, còn tôi tuổi con dê!
Chúng tôi không gặp trở ngại gì
trong việc mời anh Thuyên và anh Tiếu tham gia, nhưng anh Văn còn lưỡng lự
vì anh dang đau dạ dày khá nặng. Nhưng cuối cùng anh Văn cũng đồng ý sau
khi anh em hứa sẽ nâng đỡ nhau trên đường trốn thoát. Về phần cha Ðịnh,
ngài dứt khoát không tham gia. Ngài nói:
- Chừng nào được gọi lên là tôi về,
tôi không đi đâu cả, dù cửa mở tôi cũng không đi chớ đừng nói trốn.
Tôi hỏi lại:
- Nhưng nếu 5 người chúng tôi đi cả
thì bác tính sao?
Tưởng là tôi nói đùa, ngài trả lời:
- Các anh đi thì các anh cứ đi, tôi
ở lại một mình chứ sao!
- Rồi bác trả lời sao với cán bộ?
- Trả lời sao kệ tôi!
Thấy câu chuyện đã đi vào ngõ cụt,
tôi cười vả lả:
- Không đơn giản như bác nói đâu!
Nhưng mà này! Nói chơi đấy nhá!
Chúng tôi thấy vấn đề trở nên khó
khăn khi cha Ðịnh quyết tâm ở lại. Mặc dầu vậy, chúng tôi vẫn lén lút
chuẩn bị mọi thứ. Chúng tôi đề phòng bọn cán bộ và trật tự bên ngoài, vừa
phải làm cho cha Ðịnh trong buồng thấy không có chuyện gì sắp xảy ra cả.
Chúng tôi nghĩ rằng cha Ðịnh không hại chúng tôi, nhưng một thái độ có vẻ
lo lắng hay một lời nói vô tình nào đó của ngài có thể làm cho bọn cán bộ
và Trật Tự nghi chúng tôi muốn trốn trại thì mọi chuyện sẽ hỏng. Họ sẽ có
biện pháp đề phòng ngay, như phân tán chúng tôi ra nhiều phòng khác nhau
hay nhốt chúng tôi ở nhà kỷ luật, bị còng ngày đêm.
Khoảng sau Tết vài tuần, chúng tôi
đã đồng ý với nhau chọn ngày N là đêm mùng 1/5/79, vì ngày đó là ngày Lễ
Quốc Tế Lao Ðộng, cả trại được nghỉ, cán bộ được "bồi dưỡng"
sẽ đánh chén say sưa và chểnh mảng trong việc canh gác ban đêm. Như
vậy chúng tôi có 2 tháng để điều nghiên kế hoạch vượt ngục từng chi tiết
và lén lút chuẩn bị các thứ. Suốt 2 tháng trời đó chúng tôi cố gắng tìm
hiểu và dự trù tất cả mọi chuyện có thể xảy ra vì trong canh bạc lớn này
chính mạng sống của mình được dặt xuống chiếu để chơi. Vì cùng là linh mục
với nhau, tôi được các anh giao nhiệm vụ thông báo cho cha Ðịnh 2 ngày
trước trước ngày chúng tôi hành động. Chúng tôi đã tiến hành công cuộc
vượt ngục như mọi kế hoạch đã vạch ra.
Trong đêm 1/5/79, chúng tôi đã cùng
nau đào tường để ra khỏi nhà kiên giam và leo tường ngoài để ra khỏi trại.
Nhưng chuyện bất ngờ đã xảy ra. 2 anh Trịnh Tiếu và Lâm Thành Văn đã không
thể leo lên để nhảy ra khỏi tường ngoài của trại. Anh Tiếp, anh Thuyên và
tôi đã ra ngoài trước phải ngồi chờ 2 anh còn lại. Khi thấy trời gần sáng,
3 chúng tôi đành phải bỏ kế hoạch thứ nhất là chạy trốn vào rừng ẩn nấp
rồi tìm cách làm bè để xuôi sông Mã đi về hướng Thanh Hóa.
Từ chỗ tạm ẩn nấp ở một cái đồi cao
rậm rạp gần bên trại, một bên là đường cái và một bên là sông Mã, 3 anh em
chúng tôi nhận thấy không thể đi ra ngả đường cái được vì sẽ bị phát hiện
ngay, nên đành phải bơi dọc theo bờ sông nước dâng cao vì trận mưa to suốt
đêm qua để tìm một nơi ẩn nấp. Bơi được một lúc, chúng tôi gặp một hốc đá
thật kín đáo, bên trên có một cây to, rễ cây tua tủa ra bao trùm kín cả
miệng hang, tạo thành một nơi ẩn nấp lý tưởng, cả 3 người lặn xuống nước
và chui vào ẩn trong đó.
Khi nghe 3 tiếng súng báo động có tù
vượt ngục của công an võ trang, chúng tôi yên lặng thu mình trong hang,
hồi hộp nghe ngóng và chờ đợi. Chúng tôi biết rằng chúng tôi đang ở trong
tình trạng nguy hiểm, nhưng vẫn nuôi hy vọng sẽ thoát đi được khi đêm tối
đến, một thứ hy vọng rất mỏng manh. Không bao lâu, chúng tôi nghe rõ tiếng
chân người chạy rần rần ngay bên trên, tiếng la hét, tiếng chó sủa...
Chúng tôi biết bọn cán bộ đang dắt chó săn đi truy lùng chúng tôi.
Tiếng chân người mỗi lúc một xa dần
khiến tôi mừng thầm và nghĩ rằng họ không khám phá ra chúng tôi đang ở đây
nên đã đi lùng ở những nơi khác. Nhưng không bao lâu, chúng tôi lại nghe
tiếng ồn ào trở lại, rồi tiếng la hét và tiếng chó sủa càng lúc càng gần
hơn. Biết chắc là không thể thoát được, chúng tôi đón nhận cái chết. Tôi
khoát nước sông Mã làm phép rửa tội cho anh Tiếp. Khi vừa rửa tội xong,
anh ôm tôi hôn một cách vô cùng tha thiết như muốn bày tỏ một sự vui mừng
và biết ơn, nhưng tôi đâu có ngờ đó là cái hôn vĩnh biệt anh gởi lại cho
tôi trước lúc từ giã cuộc đời.
Nằm trong hang tối om vạch cỏ nhìn
ra, tôi thấy tên Thượng sĩ Hoàn mặc áo thun, quần đùi trắng, khẩu súng lục
có dây đeo quàng ngang vai, đang đứng trên chiếc xuồng nhỏ, cầm cây tầm
vông dài chừng 3 thước, trên đầu có cây sắt nhọn mà tiếng miền Nam chúng
tôi gọi là cây "xà no" dùng để đâm chuột, đâm rắn trong các
lùm bụi Hắn vừa chống xuồng vừa chọc cây sắc nhọn một cách điên cuồng vào
các bụi rậm bên bờ sông mà hắn nghi có người ẩn nấp trong đó.
Chúng tôi thấy chiếc xuồng đang từ
từ trôi xuống chỗ chúng tôi ẩn nấp.
Chúng tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng.
Bỗng có tiếng một người đàn bà đứng trên thuyền đánh cá từ bên kia sông
gọi vọng sang, giọng nói lanh lảnh:
- Chúng nó vừa ở ngay đấy thôi !
Tên Hoàn quay mặt sang hỏi:
- Ở mô?
- Ðâu trong bụi rậm trước mặt ấy,
tôi vừa nom thấy chúng ngay trong bụi ấy!
Theo sự chỉ dẫn của người đàn bà,
tên Thượng sĩ Hoàn đã tìm thấy chúng tôi. Thật khó mà diễn tả tâm tư của
anh em chúng tôi lúc đó. Chúng tôi biết là đã hoàn toàn thất bại! Chúng
tôi có thể hình dung ra được chuyện gì sẽ xảy ra, vì chúng tôi đã được
chứng kiến cảnh tù nhân vượt ngục thất bại đã bị đối xử như thế nào. Ða số
đã bị đánh đập và hành hạ như một con thú. Một số đã bị đánh chết một cách
thê thảm. Tôi bảo anh Tiếp: "Thôi! Ra đi! Anh em mình không ra,
chúng nó bắn chết đó".
Khi khám phá ra chúng tôi, bọn công
an võ trang lồng lộn lên, chúng vừa chạy vừa la hét như một toán thợ săn
đang bao vây con mồi và chờ hạ thủ. Anh Nguyễn Sỹ Thuyên ở bên ngoài đã
lội ra trước, trong khi anh Tiếp và tôi ôm nhau ghì cứng trong hang nhất
định không ra. Sau khi la hét một hồi không thấy chúng tôi lội ra, tên
Hoàn đã chống thuyền đâm vào, vừa dí mũi súng vào phía chúng tôi, vừa la
hét một cách man dại:
- Lễ Mày có ra hay không hay đợi
tao bắn nát đầu mày ra?
Thực tình mà nói, lúc bấy giờ tôi
chỉ mong cho hắn siết cò, vì đó là cách giải quyết tốt nhất. Tôi đã chuẩn
bị đón nhận cái chết khi chúng tôi quyết định trốn trại. Nhưng tên Hoàn đã
quay súng ngược lên, bắn chỉ thiên 4 phát. Ðó là dấu hiệu báo cho các nhóm
đang truy lùng chúng tôi ở các vùng xung quanh biết là đã bắt được tù vượt
ngục rồi.
Thấy la hét không kết quả gì, hắn
liền chọc mạnh cây "xà no" vào hang, mũi sắt nhọn trúng vai
anh Tiếp. Qua ánh đèn pin hắn dọi vào, tôi thấy máu anh Tiếp tuôn ra đỏ
thẫm một vùng nước. Trước tình thế này, chúng tôi thấy là không còn cách
nào khác là phải lội ra. Anh Tiếp ra trước, tôi theo sau và chờ đợi những
gì sẽ xảy ra với chúng tôi khi lên bờ.
Cái giá phải trả
Tôi vừa lóp ngóp bò lên tới bờ sông,
gặp ngay tên Chuẩn úy Lăng, Sĩ Quan An Ninh của trại đang cầm trở ngược
đầu cây súng AK đứng chực sẵn. Khi tôi bò lên vừa đúng tầm, hắn dọng báng
súng cực mạnh vào giữa ngực tôi, tôi ngã lăn xuống nước. Ðó là cú đánh mở
màn cho một thảm kịch sắp diễn ra trong dây lát. Tên Thượng sĩ Hoàn dùng
"xà no" thọc vào lưng bắt tôi leo lên bờ. Tên Lăng vẫn đứng chờ
tôi, nhưng lần này không đánh nữa mà túm tóc kéo lên bờ. Vừa bò lên tới bờ
tôi thấy một đám người đông đúc đứng gần kín cả đồi sắn mới lú lên cao
chừng hơn gang tay. Cách đó không xa, một toán chừng 10 tên cán bộ đang
vây quanh anh Tiếp đánh đấm túi bụi. Vừa trông thấy tôi, một bọn khác xông
vào nga. Tôi cũng phải chịu số phận như anh Tiếp. Lúc đó anh Thuyên ở đâu
tôi không biết.
Những cú đấm đầu tiên làm tôi đau
điếng cả người, nhưng chúng đấm đá một lúc thì tôi không còn nghe đau đớn
gì nữa mà nghe những tiếng phình phình như ai đang đá banh dội vô tường.
Tôi không còn biết cảnh vật chung quanh, nhắm mắt cắn răng chịu đòn, không
hề kêu la một tiếng. Ðánh đập chán chê, họ đẩy tôi về phía trại. Mở mắt ra
tôi không còn thấy anh Tiếp ở đâu nữa. Tôi loạng choạng lê bước đi trước,
một lũ cán bộ ồn ào theo sau. Gần tới cầu ván bắc qua con suối cạn gần
trại mộc, tên Thượng sĩ Khải là một võ sĩ huấn luyện viên vũ thuật cho cán
bộ, đang đứng thủ thế ở phía trước chờ tôi tới. Khi vừa đúng tầm, hắn nhún
người nhảy vọt lên cao, tống nguyên gót chân vào mặt tôi khiến tôi lộn
nhào xuống cái suối cạn ở gần đó, máu mũi và máu miệng chảy ra lênh láng.
Phải công nhận đây là một cú đá rất đẹp, đúng bài bản và có rèn luyện. Bị
cú này, tôi cảm thấy thấm thía hơn là bị trận đánh đấm vừa rồi của những
con ngựa non háu đá. Lúc đó tôi vẫn còn tỉnh nhưng chợt nghĩ là phải giả
vờ chết, bằng không sẽ chết thật. Tôi nằm yên bất động. Bọn cán bộ đứng
trên bờ gọi giục, tôi cũng nằm yên. Có mấy tên nhào xuống đánh tiếp, tôi
cứ mặc kệ và nằm ngửa ra như một xác chết. Có lẽ chúng tưởng tôi đã chết
nên gọi 2 anh Trật Tự Thi và Phát xuống suối kéo tôi lên và mang về trại.
Bùi Ðình Thi nhập cuộc:
Bùi Ðình Thi và Trương Văn Phát, mỗi
anh một bên nắm lấy cổ tay tôi kéo lê về trại, lưng và mông tôi lết trên
đường đá cục, đau đớn không chịu được, nhưng biết làm gì hơn? Chúng kéo
tôi thẳng vô sân trại, vất nằm ngửa trên nền xi măng của hội trường. Nằm
yên một chốc, tôi mê đi không còn biết gì nữa. Chẳng biết mê man như thế
bao lâu vì tôi đã mất ý niệm về thời gian. Lúc chợt tỉnh lại, tôi mở mắt
ra thấy Bùi Ðình Thi đang cầm sô nước lạnh giội lên mặt tôi. Vừa thấy tôi
tỉnh lại, anh ta vội đặt cái sô xuống và nhanh như con hổ sợ con mồi vuột
chạy mất, nhảy chồm lên, 2 tay túm lấy một cánh tay tôi kéo thẳng lên,
đồng thời dùng gót chân đạp một cái điên cuồng vào ngực, vào bụng tôi,
miệng anh ta sùi bọt mép, nghiến răng trợn mắt nói như muốn hụt hơi:
"Ð.M. mày Lễ, ăn cơm không muốn mày muốn ăn cứt, mày muốn chết tao cho
mày chết!"
Lúc đó nằm ngửa nhìn lên, tôi bắt
gặp cặp mắt của Bùi Ðình Thi, một hình ảnh mà tôi còn cảm thấy kinh hãi
cho tới giờ, một cặp mắt đỏ ngầu như máu, 2 tròng con mắt lồ lộ ra ngoài
như mắt của một người treo cổ tự tử mà vì bổn phận có lần tôi đã chứng
kiến. Chưa bao giờ và tôi nghĩ là cũng chẳng bao giờ tôi thấy đôi mắt của
ai như đôi mắt Bùi Ðình Thi lúc đó. Ðánh đập chán chê, anh ta bỏ tôi nằm
yên. Sau này tôi mới biết anh ta bỏ tôi quay sang "thăm" 2
anh Ðặng Văn Tiếp và Nguyễn Sỹ Thuyên đang nằm rải rác gần đó. Tôi lại đi
vào cơn hôn mê lần nũa. Khi tỉnh lại, tôi thấy Bùi Ðình Thi đang cầm 2
chân tôi kéo lê lên các bậc thang đúc bằng xi măng từ sân hội trường lên
khu kiên giam. Lưng và đầu tôi va chạm vào các bậc thang (12 bậc) làm tôi
bừng tỉnh lại và nhờ đó tôi mới chưng kiến cảnh tượng hãi hùng khác:
Cảnh Ðại úy Bùi Ðình Thi giết chết Thiếu tá Ðặng Văn Tiếp!
Mạng người thứ nhất
Bùi Ðình Thi kéo tôi vào lại buồng
cũ, nơi mà chúng tôi vừa đào tường vượt ngục đêm qua. Chắc chắn một điều
là Bùi Ðình Thi tưởng tôi đã chết rồi nên mới lôi đầu tôi vào phòng trước,
đặt tôi nằm quay mặt nhìn ra sân, nhờ thế tôi mới có cơ hội nhìn thấy tội
ác tày trời của anh ta. Nếu biết tôi còn sống, có lẽ Bùi Ðình Thi đã ban
cho tôi một "cú ân huệ" rồi.
Vừa quẳng tôi vô buồng, Bùi Ðình Thi
vội quay trở ra cửa khu kiên giam đẩy mạnh anh Tiếp vào. Từ lúc thấy anh
Tiếp bị đánh ở bờ sông cho đến lúc đó là bao lâu, tôi cũng không thể đoán
được vì trí nhớ tôi lúc đó rối loạn. Anh bị đòn nhiều ít thế nào tôi cũng
chẳng hay. Tôi chỉ biết là lúc đó tôi trông anh còn có vẻ khá hơn tôi, tuy
dáng anh trông tả tơi, nhưng anh còn đi đứng được. Chung quanh anh lố nhố
bọn cán bộ. Tôi nghe có cả tiếng phụ nữ chắc là vợ con cán bộ nghe tin
cũng đã chạy lên xem cảnh hành hạ tù vượt ngục. Tôi không biết ai đã quật
anh Tiếp ngã xuống, nhưng tôi thấy rõ Bùi Ðình Thi, và chỉ có một mình Bùi
Ðình Thi mà thôi, nhảy chồm tới cầm tay anh Tiếp kéo lên, rồi dùng ngón
chân dậm lên một cách điên cuồng lên ngực, lên bụng anh giữa tiếng chửi
bới và cổ võ của một lũ cán bộ.
Nằm nhìn ra cảnh ấy, tôi biết là anh
Tiếp không thể chịu nỗi cú đòn hiểm độc này của Bùi Ðình Thi. Không rõ Bùi
Ðình Thi hành hạ anh Tiếp trong bao lâu cho tới khi tôi nghe anh kêu lên
thật to: "Chắc con chết mất Mẹ ơi!" Tôi không ngờ đó là câu
nói cuối cùng của đời anh. Ðặng Văn Tiếp đã chết. Không ai ngờ được một
cuộc đời đã từng ngang dọc oai hùng của anh đã bị chấm dứt một cách tức
tưởi như thế này vào một buổi sáng âm u ngày 2/5/79 trong nhà tù Thanh
Cẩm, lúc anh vừa 46 tuổi. Bùi Ðình Thi đã giết chết anh một cách dã man.
Nếu tôi không sống sót thì ai biết được ghi thêm một thảm trạng trong nhà
tù CS?
Hôm nay ngồi viết lại cảnh tượng này
lòng tôi đau nhói. Tôi có cảm tưởng như đang xem một đoạn phim chiếu những
hình ảnh méo mó, bệnh hoạn. Ruột tôi co thắt lại và tôi cảm thấy buồn nôn!
Trong cả cuộc đời của tôi, không cảnh nào làm tôi đau xót bằng cảnh một
Ðại úy QLVNCH đang trợn trừng cặp mắt đỏ ngầu như máu, điên cuồng đánh
đập, chà đạp một Thiếu tá QLVNCH đang nằm vật xuống đất, dở sống dở chết,
mình đầy máu me, trước sự chứng kiến của một lũ cán bộ VC đứng vây quanh
vừa chửi bới vừa hò hét cổ võ. Cảnh tượng này không khác gì cảnh tượng
trong một đoạn phim của cuốn phim "quo Vadis" mà tôi đã xem,
đó là cảnh một đám khán giả khát máu tập trung trong một hí trường thời cổ
đại La Mã đang là hét điên cuồng cổ võ những con ác thú cắn xé các nạn
nhân bị kết án tử hình được vất cho chúng. Ðiều đáng tiếc là "Chắc
con chết mất Mẹ ơi!" lại không phải là một con thú, anh ta là một
con người. Hơn thế nữa, anh đã từng là chiến hữu của Bùi Ðình Thi, và 2
người chưa hề có thù oán gì với nhau, anh được chúng tôi coi là một người
anh em, một người bạn tù đồng chung cảnh ngộ. Viết tới đây, cảm giác kinh
hoàng của 17 năm về trước bừng sống dậy làm tim tôi se thắt lại, nước mắt
tôi bỗng dưng tuôn trào xuống, những ngón tay tôi không còn giữ nỗi cây
viết. Tôi phải ngừng lại để nói chuyện với anh Tiếp.
"Anh Tiếp ơi! Giờ này oan hồn
anh ở đâu? Anh có biết người em này đau xót như thế nào khi ngồi ghi lại
những dòng này không? Nước mắt của người em này cứ tuôn trào ra, chảy
xuống ướt cả áo... Mỗi năm, vào ngày giỗ của anh, khi thắp nén hương đứng
cầu nguyện trước bàn thờ anh, lòng em đau xót vô cùng, nhưng chưa bao giờ
em khốn khổ như lúc em đang viết lại từng chi tiết về cái chết của anh.
Tháng 8/1995 vừa rồi, khi qua Mỹ, em đã thay anh tới nghĩa trang Arlington
viếng mộ của Mẹ anh vào một buổi sáng tinh sương, khi không khí còn trong
lành. Em đi với Thụ. Khi nhìn làn khói hương bay tỏa lên cao, tự nhiên em
nhớ lại câu nói của anh trước khi Bùi Ðình Thi đưa anh về bên kia thế
giới: "Chắc con chết mất Mẹ ơi!". Người em này bồi hồi xúc động, quay đi
để gạt nước mắt, trong khi Thụ đang lúi húi lau chùi mộ bia của Mẹ..."
Giết chết anh Tiếp xong Bùi Ðình Thi
lôi xác anh vào buồng vất chồng lên người tôi đang nằm như một thây ma bất
dộng dưới lối đi, nơi mà mấy tháng trước đây tên Ðại tá Công an VC Hoàng
Thanh đã đi qua để nhìn mặt chúng tôi. Lúc này tôi nằm ngửa còn xác anh
Tiếp mềm nhũn nằm sấp áp lên người tôi. Trong tư thế đó, tôi là người thân
cuối cùng có mặt để tiễn đưa anh về thế giới bên kia.
Linh mục Nguyễn Hữu Lễ Nhóm Quyết Tiến 48 Viết tại Auckland, New Zealand Ngày 2/1/1995
|