TƯỞNG NIỆM TRẦN VĂN HƯƠNG,
NHÂN SĨ SUỐT ÐỜI GIỮ
TIẾT THÁO
(04/27/01 )
Hứa Hoành
"Tôi xin
phép từ chối. Tôi không nhận cái quyền công dân nầy. Dầu gì tôi cũng đã là
người lãnh đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp, chỉ vì thừa
lịnh của chúng tôi, mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo,
chưa được trả quyền công dân. Chẳng lý gì, tôi là người trách nhiệm, lại
được trả quyền công dân trước..." (Lời cựu Tổng Thống Trần Văn
Hương trả lời một cán bộ CS, khi họ đến nhà định làm lễ, quay phim
"trả quyền công dân cho ông").
Hàng năm, cứ đến
ngày oan trái 30 - 4, tôi lại bâng khuâng nhớ đến các anh hùng liệt sĩ đã
bỏ mình vì nước. Làm tướng giữ thành, thành mất, tuẫn tiết theo thành,
ngày xưa có Tổng đốc Hoàng Diệu (1828 - 1882), Tổng đốc Nguyễn Tri Phương
(1800 - 1873)... Ngày nay có Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu tướng Lê
Văn Hưng, Thiếu tá quận trưởng Bồng Sơn Hoàng Lê Cương (1972) và hàng trăm
ngàn chiến sĩ vô danh khác, đã tự sát để giữ tròn khí tiết, không để lọt
vào tay kẻ thù làm nhục. Họ nêu những gương hy sinh cao quý, tiết liệt,
lịch sử ghi nhớ muôn đời.
Hai mươi năm
chiến tranh, một cuộc chiến tranh vệ quốc sáng ngời chính nghĩa quân dân
miền Nam đã hy sinh hàng triệu người, chỉ vì muốn bảo vệ một lý tưởng
"Ðộc lập, tự do" và không muốn đất nước rơi vào tay CS. Nhưng
cuối cùng phải thất bại trong nỗi uất hận, nghẹn ngào.
Năm nay, nhân
ngày tang tóc đau thương của toàn thể dân tộc Việt Nam, chúng tôi muốn
nhắc lại với thế hệ mới lớn lên, về những cái chết oai hùng. Trong phạm vi
bài nầy, chúng tôi kể lại những ngày sau cùng của một chính khách thanh
liêm, cương trực, suốt đời giữ được tiết tháo và lòng yêu nước: người đó
là cụ Trần Văn Hương, hai lần làm đô trưởng Sàigòn, hai lần làm thủ tướng
và Phó Tổng Thống, và cuối cùng là Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ được 3
ngày... Cụ Hương mất đi không một lời cáo phó. Cụ mất, nhưng gương hi sinh
và thái độ sống của người quân tử mà cụ nêu gương không bao giờ mất. Tuy
là người đồng hương, vì nhà tôi ở chỉ cách nhà người chị ruột của cụ Trần
Văn Hương chừng 300 mét, trên đường Văn Thánh (tức Văn Thánh miếu thờ Ðức
Khổng Tử và cụ Phan Thanh Giản) tại Vĩnh Long. Là thế hệ sau, thuộc hàng
con cháu, nên tôi không được quen biết với cụ. Tháng Hai năm 1975, tôi là
thành viên của một phái đoàn vận động thành lập Viện Ðại học Long Hồ cho 3
tỉnh Vĩnh Long Kiến Phong và Vĩnh Bình, có đến tư thất của cụ ở đường Phan
Thanh Giản Sàigòn, để yết kiến và xin cụ giúp đỡ. Tháng 3 năm 1975, cụ với
tư cách là Phó Tổng Thống, có đến tại hội trường thuộc trường Sư Phạm (cao
đẳng) Vĩnh Long, để chứng kiến lễ chấp nhận thành lập Viện Ðại Học Long
Hồ, do Tổng Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Ngô Khắc Tỉnh ký trước mặt cụ. Mặc
dầu rất nhiều lần giữ những địa vị cao trong chính trường miền Nam, nhưng
cụ Trần Văn Hương là một người có đời sống giản dị, mẫu mực, thanh liêm
không bất cứ một ai có thể mua chuộc được. Khi thôi việc, cụ Hương sống
cuộc đời chật vật nhưng vẫn giữ được tư cách.
Trần Văn Hương
sinh năm 1904 tại làng Long Châu, nay thuộc quận Châu Thành Vĩnh Long,
trong một gia đình nghèo. Nhờ học giỏi và được sự hy sinh của gia đình,
cậu học sinh Trần Văn Hương được ra Hà Nội học trường Cao đẳng Sư Phạm...
Sau khi tốt nghiệp, ông giáo Trần Văn Hương được bổ về dạy tại trường Le
Myrle de Vilers Mỹ Tho, cũng là ngôi trường cũ mà ông đã theo học mấy năm
trước. Thời gian từ năm 1943 ? 1945, ông Hương là giáo sư dạy môn văn
chương và luân lý tại trường nầy. Sau đó ông Hương được đổi lên làm Ðốc
học tỉnh Tây Ninh.
Năm 1945, Việt
Minh nổi dậy cướp chính quyền khắp 3 kỳ, nhóm Việt Minh mới của Trần Văn
Giàu (chủ tịch Ủy ban hành chánh Nam bộ) cử cụ làm chủ tịch Ủy ban hành
chánh tỉnh Tây Ninh. Làm việc với Việt Minh được mấy tháng, thấy họ không
thành thật, và theo con đường bá đạo, nên ông Hương từ chức. Tuy vậy cụ
vẫn còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến. Khi thấy bộ mặt thật của Việt
Minh là CS, tìm cách khủng bố, ám sát thủ tiêu những người yêu nước có
tinh thần quốc gia, cụ bỏ về thành. Ban đầu cụ bán thuốc tây cho nhà thuốc
của dược sĩ Trần Kim Quan (Pharmacy Kim Quan) ở góc đường Lê Lợi và chợ
Bến Thành bây giờ).
Theo tài liệu của
tình báo Mỹ, ông Hương có hai người con: Trần Văn Dinh và Trần Văn Doi
(Giỏi?). Hồi còn theo học trường "College de Can Tho", kháng
chiến nổi lên, Doi bỏ học theo kháng chiến. Khi phái đoàn Hồ Chí Minh qua
Pháp cùng một lúc với hội nghị Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Doi
theo xuống tàu ra Bắc. Từ đó hai cha con không bao giờ gặp nhau nữa. Ông
Huỳnh Văn Lang, cựu Tổng giám đốc Viện Hối Ðoái dưới thời Tổng Thống Ngô
Ðình Diệm cho biết "Ông Trần Văn Giỏi (không phải Dõi) ở tại Sàigòn, bên
cạnh ông Hương như một người cố vấn.
Năm 1964, ông
Hương làm Thủ tướng chính phủ, tình báo Mỹ có đem lại một hồ sơ cho biết
cụ có người con theo CS. Cụ Hương thẳng thắn nhìn nhận và cho biết từ đó
cho đến nay, cụ không còn liên lạc gì với người con đó hết. Khi cụ tham
chính, thì nguòi con lớn là Trần Văn Doi ở kế cận đóng vai người cố vấn
thân tín.
Tháng 7 - 1967,
ông cùng với ông Mai Thọ Truyền, ra ứng cử chức Tổng Thống chỉ được 10% số
phiếu, về hạng tư. Tháng 5 - 1986, ông được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
mời làm Thủ Tướng, thay thế Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc. Trong nhiệm kỳ Tổng
Thống 1971 - 75, ông Trần Văn Hương làm phó tổng thống, và khi ông Thiệu
từ chức tổng thống giữa lúc tình thế đất nước lâm nguy,ông Hương được đôn
lên làm tổng thống dùng theo hiếp pháp.
Các chi tiết về
cuộc đời của cụ Trần Văn Hương trong những ngày tháng cuối cùng, được bà
Phan Cẩm Anh cùng chồng là bác sĩ, người có dịp gần gũi với cụ Hương kể
lại. Tôi được phép chỉ để trích một phần lớn trong bài ấy: ?Hương trà năm
cũ? trong bài viết để đồng bào, đồng hương có dịp biết thêm về nhiều chi
tiết cảm động của một kẻ sĩ thế hệ cũ còn sốt lại. Kính xin anh chị Phan
Cẩm Anh thể nhận nơi đây lòng biết ơn của tác giả.
"...Nhiều năm
trước, khi tôi học trung học, một buổi tối sau khi dùng cơm, chị tôi dẫn
tôi đến phủ "cây tùng" để thăm Mai Hương, một người bạn cùng
"khóa I Nữ quân nhân" của chị, bây giờ vừa lập gia đình với
đại úy Phan Hữu Chương, cháu ruột cụ Trần Văn Hương. Ba chị em đứng trò
chuyện dưới táng cây của phủ phó tổng thống. Thình lình, cụ Hương từ trong
nhà bước ra, nhìn về phía chúng tôi, gật đầu, rồi đưa tay ra hiệu bảo Mai
Hương theo cụ vào trong phủ. Khi trở ra, Mai Hương lè lưỡi nói với chị
tôi:
- Ông cụ vừa mới
la.
- La về chuyện gì
vậy?
- Ông cụ nói:
"Sao không mời bạn bè vào phòng khách nói chuyện đàng hoàng mà để bạn
đứng dưới gốc cây... ông cụ nói tiếp: "Tiếp bạn đến chơi như
vậy là không trọng bạn chút nào hết."
Ðó lần đầu tiên
tôi thấy cụ Hương, nhưng nghe thuật lại những lời cụ trách, lòng tôi tự
nhiên nhen nhúm một cảm tình đầy quý trọng. Sau đó, tôi có dịp trở lại phủ
phó tổng thống vài lần lúc Mai Hương sắp vào nhà bảo sanh. Vì lẽ phu quân
Mai Hương bận công vụ, nên Mai Hương cho tài xế đến nhờ tôi và em gái tôi
giúp đưa Mai Hương vô bịnh viện. Tất cả những lần đó, tôi chẳng có dịp nào
giáp mặt cụ Hương.
Thời gian trôi
qua, miền Nam sụp đổ, Dương Văn Minh ra lịnh đầu hàng. Ngay buổi sáng sớm
ngày đầu mất nước, tại ngôi biệt thự cũ kỹ nằm khuất trong ngõ hẻm ngăn
đường Phan Thanh Giản, thân nhân sống trong biệt thự này đã đau đớn đem
đặt giữa nhà hai xác người cùng nhau tìm cái chết. Họ vừa chia nhau ống
thuốc ngủ đêm qua. Ðó là đại úy Phan Hữu Chương và vợ là cựu trung úy Trần
Mai Hương. Họ để lại vỏn vẹn vài lời trăng trối, xin nhờ lòng tha thứ của
cụ Hương và gia đình vì không thể sống khi đất nước rơi vào tay kẻ thù...
Ðôi vợ chồng trẻ gởi gắm lại ba đứa con trai còn thơ dại, nhờ ông bà nội
(em rể cụ Hương) dưỡng nuôi. Cũng trong ngôi biệt thự bao phủ một bầu
không khí ảm đạm và im lìm đó, nơi một căn phòng khác trên lầu, cụ Hương
đóng cửa, im lặng, trầm mình trong nỗi đau khổ của một người đã từng lãnh
đạo đất nước, bây giờ đành tâm chứng kiến giờ phút suy vong, cảnh nhà tang
chế. Nỗi đau khổ của cụ ở mức độ nào, chẳng ai trong nhà được cụ hé môi
thổ lộ.
Nhưng ý định cùng
chồng đi tìm cái chết của Mai Hương, không được toại nguyện bởi lẽ một
người cháu đem Mai Hương đi cấp cứu. Sự sống của Mai Hương đã được các bác
sĩ giành giựt lại từ đường tơ kẻ tóc. Nhờ đó Mai Hương trở thành một chiếc
cầu để tôi có cơ hội biết thêm chút ít về cụ Trần Văn Hương trong những
ngày cuối cùng của cụ.
Nhiều lần Mai
Hương dẫn tôi về lại ngôi biệt thự trên để thăm các con của Mai Hương,
hiện đang sống nương nhờ vào ông bà nội. Tôi đã chứng kiến cảnh sống đạm
bạc, nếu không muốn nói là thiếu thốn, túng quẩn của gia đình cụ Hương. Cụ
Hương luôn luôn sống lặng lẽ một mình trong căn phòng nhỏ ở trên lầu. Căn
phòng bày trí thật sơ sài, chẳng có món đồ nào được coi là sang trọng.
Ngoài chiếc giường nệm cụ nằm, đồ vật còn lại là hai chiếc ghế bành, một
cái tủ đựng quần áo đã cũ, một chiếc bàn con trên đó cụ để một tượng Phật
Di Lạc. Căn phòng có một cửa ăn thông ra sân thượng. Hầu cận, săn sóc cụ
là người em rể của cụ mà tôi gọi theo như Mai Hương là Dượng. Phía dưới
lầu là các gian nhà trệt nhỏ, nằm dọc theo bức tường phía trong của khuôn
viên biệt thự, có lẽ trước kia là nhà kho, bây giờ trở thành nơi tá túc
qua ngày cho các thân nhân gồm các em và cháu của cụ, vì phải gặp cảnh khó
khăn dưới quê, tìm về Sàigòn nương náu trong ngôi biệt thự cũ nát mà tổng
thống Thiệu đã cấp từ thời trước.
Ngôi biệt thự
nầy, trước khi cấp cho cụ Hương, tổng thống Thiệu đã chỉ thị phải sửa
chửa, chỉnh trang lại đàng hoàng, nhưng cụ từ chối viện lẽ cụ già rồi,
không làm việc gì ích nước lợi dân được nữa, nên không muốn làm hao tốn
công quỹ. Do đó, đến khi CS vào, ngôi biệt thự trên chẳng phải là mồi ngon
cho cán bộ của họ tranh nhau giành giật chiếm đoạt như các ngôi biệt thự
xinh xắn khác. Tường biệt thự nhiều nơi nứt nẻ, nền nhà nhiều chỗ vở bung
lên, màu vôi trải qua nhiều năm tháng vàng ố không được trùng tu, sơn
quét. Hình ảnh cụ lúc nầy như một con chim đại bàng sa cơ, gãy cánh mà vẫn
cố giương đôi cánh mang thương tích của mình để bảo bọc chim non. Tôi được
nghe kể lại cứ mỗi lần người nhà bưng cơm lên lầu cho cụ, phần cơm rất đạm
bạc, lâu lâu mới có chút cá thịt, thân nhân muốn nhường cho cụ để bổ
dưỡng, cụ hỏi xem mọi người trong nhà có được ăn như cụ vậy không. Mặc dầu
người nhà thường trả lời "có" cho cụ an tâm, nhưng cụ vẫn
hiểu sự thật của chữ "có", nên thường cụ để dành lại thức ăn
ngon trên mâm, hầu đem xuống nhà cho con cháu.
Có những lần tôi
theo Mai Hương đến thăm ông bà nội các con Mai Hương, lúc trở về, ra tới
cánh cổng, tôi quay đầu nhìn lên sân thượng thấy cụ Hương, ngồi yên lặng
trên đó. Mình cụ để trần, mái tóc bạc trắng, đôi mắt nhìn thẳng về phía
trước không hề di động... Tôi thấy cụ Hương ngồi trên sân thượng như vậy
nhiều lần, và những lần như vậy, trên đường đạp xe về nhà, hình ảnh già
nua, im lặng và cô độc của cụ cứ lẩn quẩn mãi trong đầu óc tôi,
Một hôm, có lẽ
cũng vào dịp gần Tết, Mai Hương đưa một củ sâm Ðài Loan và nói với tôi:
- Bà nội sắp nhỏ
biểu chị đem củ sâm nầy đi bán. Ðó là củ sâm người ta tặng cho ông cụ từ
lúc ông cụ sang Ðài Loan, còn cất giữ mãi đến bây giờ. Ông nói chắc không
dùng đến nó, nên sai đem bán lấy tiền đong gạo cho sắp nhỏ?.
Mai Hương mở gói
giấy bọc củ sâm ra, củ sâm vỏn vẹn bằng hai phần ba bàn tay, nằm giữa mấy
lớp giấy gói đã cũ. Nhìn qua, ai cũng biết củ sâm được gói kỹ lưỡng, và bị
lãng quên trong một ngăn tủ nào đó lâu lắm rồi, nay mới được nhớ lại...
Tôi nhìn củ sâm nghẹn ngào. Một nhà giáo thanh bạch, một người lãnh đạo
quốc gia trong sạch như cụ, chỉ lấy đạo đức bản thân làm tài sản. Cụ đâu
có nén vàng nào có thể đem bán lấy tiền đong gạo cho đàn cháu, hay giúp đỡ
người thân đang tá túc trong nhà, những người đã ít nhiều liên lụy vì các
hoạt động chính trị của cụ.
Khoảng hơn một
tuần sau, ông nội các cháu, tức em rể cụ Hương, ghé lại nhà Mai Hương và
tôi (lúc này Mai Hương và tôi sống chung với nhau trong một căn nhà nhỏ ở
quận Tân Bình) kể cho chúng tôi biết là ông vừa làm theo ý cụ Hương: đem
mấy bộ đồ veste còn tốt của cụ ra chợ trời bán. Ðể an ủi người nhà bớt đau
lòng, cụ Hương bình thản giải thích:
- Từ đây cũng
đâu có dịp nào mặc nó nữa, đem bán đi chớ để làm chi!
Số tiền bán áo
trên, chẳng ở trong túi được bao lâu, vì ngay sau đó bà Út đi chợ mua đồ
ăn cho sắp nhỏ...Gia đình cụ Hương đã chịu chung số phận đau khổ và bi đát
tột cùng từ tinh thần đến vật chất khi miền Nam rơi vào tay CS. Có một sự
kiện làm tôi chảy nước mắt mỗi khi nhớ đến, lòng thêm kính mến và cảm phục
cụ Hương: Trước khi chính quyền CS cho tổ chức cuộc bầu cử quốc hội (bịp)
đầu tiên, cụ Hương được họ thông báo sẽ có một buổi lễ để chính phủ trả
quyền công dân cho cụ. Sau đó, để có buổi lễ được quay phim tuyên truyền,
khi một cán bộ thay mặt chính quyền, đọc ?chính sách khoan hồng, rộng
lượng? của nhà nước đối với những ?thành phần? như cụ, cụ dõng dạc nói:
- Tôi xin phép từ
chối. Tôi không nhận cái quyền công dân này. Dù gì tôi cũng là người lãnh
đạo miền Nam, trong khi binh sĩ, nhân viên các cấp chỉ vì thừa lịnh của
chúng tôi mà giờ đây vẫn còn bị giam cầm trong các trại cải tạo, chưa được
trả quyền công dân trước. Tôi sẽ là người sau cùng nhận cái quyền công dân
này, sau khi binh sĩ và nhân viên của chúng tôi đã được nhận.
Ðại diện của
chính quyền CS không ngờ sự thể xảy ra như vậy. Tức giận, họ ra lịnh cúp
máy thu thanh, thu hình. Vài ngày sau cụ nhận được lịnh quản thúc tại gia
3 năm. Cụ Hương nói với người nhà:
- Bọn nó cũng
chẳng cần phải quản thúc tao. Tao già và đau yếu như vầy, có khi nào bước
chân ra khỏi nhà đâu mà cần phải quản thúc! Vào năm 80 tuổi, mỗi lần theo
Mai Hương ghé vào thăm ông bà nội của các cháu, tôi ít thấy cụ Hương ra
ngồi ở sân thượng như lúc trước. Tôi được biết sức khỏe của cụ sa sút
nhiều. Một hôm, em rể cụ Hương bảo tôi:
- Ông cụ dạo nầy
yếu quá. Ông lại dứt khoát không muốn vô nhà thương khám bịnh hay chữa trị
gì cả. Chắc Cẩm Anh cũng biết tại sao rồi. Dượng muốn nhờ Cẩm Anh có quen
ai là bác sĩ trước 1975, xin họ đến nhà khám bịnh giùm cho ông cụ. Nếu
không thì Dượng chẳng yên tâm.
Nghe ông Dượng
nói tôi mới nhớ, cách đó không lâu, cụ Hương bị mệt xỉu phải đưa vô nhà
thương cấp cứu. Lúc tỉnh dậy, cụ nhứt định đòi người nhà phải đưa cụ về
ngay. Cụ một mực từ chối, không chịu để điều trị trong bịnh viện đã thuộc
về tay chính quyền CS.
Mặc dầu có quen
biết vài bác sĩ, nhưng tôi nghĩ ngay đến nhà tôi, lúc ấy còn là một người
bạn, vì trong hoàn cảnh không biết tương lai ra sao, nên chúng tôi chưa
nghĩ đến việc lập gia đình. Tôi nhận lời Dượng, hứa tìm một bác sĩ của
?chế độ mình? để nhờ khám bịnh cho cụ. Khi nghe tôi trình bày, nhà tôi
chẳng chút ngần ngại, vui vẻ nhận lời ngay. Lần đầu tiên nhà tôi đến, cụ
bảo nhà tôi lại thật gần để cụ nhìn mặt vì mắt cụ đã mờ. Cụ Hương hỏi nhà
tôi:
- Con đến đây
thăm bịnh cho qua, con có sợ họ làm khó dễ con không?
Nhà tôi trả lời:
- Thưa cụ, cháu
chỉ làm bổn phận và công việc của người thầy thuốc, cháu không ngại...
Cụ xúc động, ghé
người gần lại, đưa tay ôm lấy đầu nhà tôi. Nhà tôi tiếp:
- Thưa cụ, cháu
là bác sĩ trẻ mới ra trường, kinh nghiệm và kiến thức hãy còn ít, chữa
bịnh cho cụ, nếu có điều gì không biết, cháu sẽ về đọc sách lại.
Cụ Hương vui vẻ,
mỉm cười cảm ơn và nắm lấy tay nhà tôi như để trấn an.
Từ đó nhà tôi
lui, tới với cụ thường xuyên để thăm bịnh cụ. Dường như việc trị bịnh đối
với cụ chẳng có gì quan trọng, cụ không quan tâm lắm, mặc dầu cụ luôn luôn
là một bịnh nhân gương mẫu, theo đúng những lời dặn của bác sĩ. Ðiều làm
cho cụ vui và thoải mái hơn có lẽ là có người để cụ nói chuyện. Do đó, nhà
tôi thường ngồi lại với cụ một hai giờ sau khi khám bịnh. Cụ nói thuốc men
cụ dùng hàng ngày là do bà Trần Văn Văn và bạn bè ở Pháp gởi về tặng cụ.
Những thứ thuốc nào không cần dùng, cụ đưa cho người em rể cụ đem ra chợ
trời bán, lấy tiền chia đều cho gia đình con cháu đong gạo. Một hôm cụ kể
cho nhà tôi nghe một câu chuyện rất cảm động như sau:
- Con biết không,
chú có thằng em đến thăm (cụ xưng chú với nhà tôi, khi biết thân phụ nhà
tôi lớn hơn cụ vài tuổi) nó đem đến một hộp sữa bò còn tặng chú 5 đồng
(lúc mới đổi tiền, 500 đồng tiền cũ ăn 1 đồng tiền mới). Chú thương nó có
tình, nhưng nghĩ nó phải đạp xích lô cực khổ để sinh sống, nên chú không
nở lấy. Nhưng nếu chú không nhận thì ?sợ nó? buồn tội nghiệp, nên chú chỉ
nhận có 5 đồng, còn hộp sữa thì bảo nó đem về cho gia đình (lúc ấy sữa rất
khó mua). Người mà cụ kể là ?thằng em? một cách thân mật chính là thuộc hạ
cũ của cụ.
Cụ Hương còn tâm
sự với nhà tôi những chuyện lúc cụ còn trẻ. Có một thời gian cụ cùng với
một người con trai (Trần Văn Doi) theo hoạt động cho Việt Minh chống Pháp.
Nhưng khi nhận ra bộ mặt thật của Việt Minh, cụ dứt khoát trở về lại trong
Nam và mất liên lạc với người con trai từ lúc ấy. Người con trai nầy đã ở
lại miền Bắc, và phục vụ trong quân đội CS. Sau khi Sàigòn bị chiếm, anh
có về thăm cụ với vợ là một bác sĩ VC. Có lẽ sự lui tới của cặp vợ chồng
nầy cũng nhằm mục đích theo dõi cụ.
Cụ Hương cũng có
một người con khác đang sinh sống tại California. Anh có một đứa con bị
bịnh Thalassemia, được đưa sang Mỹ chữa trị trước năm 1975. Ðã bao lần anh
muốn bảo lãnh cụ ra nước ngoài, nhưng cụ nói với nhà tôi:
- Trước kia đại
sứ Martin năn nỉ, yêu cầu chú đi, chú đã từ chối. Bây giờ đời nào chú lại
xin chính quyền CS để được đi.
Những lần đi thăm
bịnh sau của nhà tôi, cụ tâm sự nhiều hơn về những vụ buồn trong cuộc đời
tham chính của cụ. Cụ luôn nhắc đến tên của những người mà cụ đặc biệt quý
mến như bác sĩ Bạch Ðình Minh. Cụ ngậm ngùi kể:
- Bác sĩ Minh là
một người mà chú rất quý trọng. Hồi trước chú thấy bác sĩ Minh đi khám
bịnh mà không có đồng hồ đeo tay. Chú mua tặng cho bác sĩ Minh một cái,
nhưng đeo được vài tuần, bác sĩ Minh đem trả lại chú. Chú thấy bác sĩ Minh
phục vụ trong quân đội hết lòng tận tụy và giàu tinh thần trách nhiệm, chú
đề nghị lên tổng thống Thiệu tưởng thưởng "Bảo quốc huân chương"
cho bác sĩ Minh. Bác sĩ Minh từ chối không nhận viện lẽ ông đang làm việc
ở chỗ an toàn, xin dành huy chương ấy cho những người xả thân chiến đấu,
hy sinh xương máu cho đất nước. Một lần khác cụ hỏi nhà tôi:
- Con có biết bác
sĩ Trần Lữ Y không?
Nhà tôi thưa:
- Bác sĩ Trần Lữ
Y dạy con môn Nội Khoa ở trường Y khoa.
Cụ Hương tâm sự:
- Hồi trước bác
sĩ Hoa Kỳ sang đây khám bịnh cho chú, họ đề nghị đưa chú sang Hoa Kỳ chữa
bịnh. Thằng Trần Lữ Y đi theo chú, xin lỗi con, chú gọi bác sĩ Trần Lữ Y
bằng "thằng", vì chú thương nó như con chú vậy. Khi máy bay ghé Manille,
suốt mấy hôm chú ăn không nổi đồ ăn của họ, nên bác sĩ Trần Lữ Y phải ra
phố kiếm thức ăn mua về cho chú. Gần đây chú nghe có người nói bác sĩ Trần
Lữ Y qua đời bên Pháp vì bịnh ung thư, có đúng như vậy không?
Nói tới đây, cụ
im lặng hồi lâu như nén sự xúc động. Mấy tuần sau, nhà tôi được tin bác sĩ
Trần Lữ Y vẫn còn khỏe mạnh ở bên Pháp và có phòng mạch tư, gần với phòng
mạch của bác sĩ Phạm Tu Chính. Nhà tôi vội vàng ghé lại thăm và nói cho cụ
Hương biết tin thật về bác sĩ Trần Lữ Y. Nghe xong, cụ Hương nắm lấy tay
nhà tôi mà chẳng nói gì. Hai giòng nước mắt từ từ lăn trên má cụ.
Mặc dầu sức khỏe
cụ Hương lúc đó đã sa sút nhiều, đi đứng khó khăn, dầu chỉ vài bước cũng
cần cây gậy. Bên cạnh giường ngủ có gắn một cái chuông điện, trên bàn luôn
có một cái chuông nhỏ để khi cần người nhà, cụ lắc bằng tay. Nhà tôi thán
phục cụ có trí nhớ đặc biệt. Cụ có thể nhớ nguyên văn câu nói của từng
người, ngày tháng, giờ giấc của sự kiện đã xảy ra. Cụ không quên từng chi
tiết nhỏ. Có lần cụ chia xẻ với nhà tôi rằng:
- Chú nghĩ người
làm chính trị phải có giáo dục và đạo đức. Khi tham chính tất nhiên chú
chấp nhận có phe đối lập, nhưng dầu khác lập trường, chú vẫn luôn luôn tôn
trọng họ. Có một dân biểu trẻ tên là (xin giấu tên), trong một buổi họp
quốc hội, đã đứng lên đập bàn, chỉ vào mặt chú nói những lời vô lễ (xin
không ghi lại câu vô lễ nầy)... Vì dân biểu nầy đáng con chú. Chú buồn và
tiếc cho người làm dân biểu mà không biết đến chữ ?lễ?, không tỏ ra có tư
cách của người học thức, chớ không buồn về lập trường đối lập của họ.
Một hôm đến thăm
cụ, nhà tôi thố lộ với cụ rằng "sớm muộn gì con cũng phải ra đi".
Chuyện ra đi không biết khi nào mới thành công, nhưng không bao giờ con bỏ
ý định đó. Chẳng phải vì miếng cơm manh áo, hay sự cực khổ mà phải bỏ quê
hương. Nhưng vì cuộc sống lúc nào cũng thấy bị đe dọa, thiếu an toàn, ngủ
một đêm thức dậy có thể bị bắt vì bất cứ một lý do viển vông nào... Nghe
nhà tôi nói, cụ Hương trầm ngâm một hồi lâu mà không nói gì. Mãi một lúc
sau, cụ thở dài chép miệng:
- Có lẽ chú làm
không đúng khi ra lịnh ngăn người ta ra khỏi nước trong những ngày hỗn
loạn.
Lúc nhà tôi từ
giã cụ ra về, cụ ôm hôn nhà tôi và nói:
- Chú gặp con
muộn quá!
Vào tháng 4 -
1981, tôi đạp xe đưa nhà tôi đi vượt biên lần thứ 13. Trước khi đi, nhà
tôi có đến thăm cụ lần cuối. Biết cụ rất buồn, nhưng cụ giấu kín tình cảm
để người đi bớt vướng víu. Một tháng sau đó, tôi cũng rời Việt Nam đi Mỹ
theo diện đoàn tụ gia đình do anh chị tôi bảo lãnh. Một ngày trước khi đi,
tôi đạp xe trở lại đường Phan Thanh Giản, đứng một mình bên chiếc cổng
sắt. Giữa một niềm vui khi sắp sửa thoát khỏi cảnh đời vô vọng, tăm tối,
và một nỗi buồn khi biết rằng mình sẽ mất bao nhiêu gắn bó thân thuộc khi
lìa khỏi nơi đây... cụ Hương vẫn là hình ảnh làm cho lòng tôi se thắt, là
một cánh sen nổi trên dòng nước đang giao động của tâm hồn tôi...
Dưới đây là hai
mẩu chuyện được nhắc lại như một giai thoại. Hồi tháng 4 năm 1954, khi có
sự vụ lịnh của thủ tướng Ngô Ðình Diệm bổ nhiệm cụ Hương làm đô trưởng
Sàigòn - Chợlớn, thì cụ đi làm việc hàng ngày bằng chiếc xe đạp Alcyon.
Khi vô tòa đô chính nhận việc, người lính gác cổng chận lại và không cho
cụ vô. Cụ phải nói thật "Tôi là Ðô Trưởng" họ cũng không tin. Cụ phải
trình sự vụ lịnh mới được bổ nhiệm, người lính mới hoảng hồn, định chắp
tay lạy cụ, nhưng cụ từ tốn, an ủi mấy câu, rồi dẫn xe đạp vô làm việc.
Khi cụ ra Vũng Tàu nghỉ dưỡng bịnh (1964), hàng tháng chính phủ trả phủ
cấp thêm 10.000 đồng, nhưng cụ từ chối, gởi trả lại công quỹ, vì cụ nói..."không
có chuyện gì cần phải xài..."
Nhắc lại về thái
độ của cụ Trần Văn Hương trong những ngày đen tối của đất nước chúng tôi
thấy có hai sự kiện đáng ghi nhớ:
Cuốn hồi ký
"Saigon et moi" của cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam, ông Mérillon
kể lại: "Mãi tới tối 18 - 4 - 1975, đại sứ Hoa Kỳ Martin mới cho ông
(Mérillon) hay rằng Hoa Kỳ sẽ buông VN. Ðại sứ Martin nói:
- Từ giờ phút này
nước Pháp sẽ đảm nhận vai trò tái lập hòa bình cho VN.
Mérillon chuyển
lời nói nầy cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Ông Hương nói:
- Ông Ðại sứ à!
Tui đâu có ngán Việt Cộng. Nó muốn đánh, tui đánh tới cùng. Tui không muốn
lưu vong xứ người. Nếu trời hại nước tui, tui xin thề ở lại và mất theo
nước này.
Ðến ngày mất
nước, đại sứ Martin còn đến gặp cụ Hương và nói:
- Ngài đi với tôi
sang Mỹ. Chánh phủ Mỹ sẽ nuôi dưỡng Ngài suốt đời, tôi nhân danh chánh phủ
Hoa Kỳ đến mời Tổng Thống ra khỏi nước với bất cứ phương tiện nào mà ngài
muốn. Chánh phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng
với cương vị tổng thống cho tới ngày Tổng Thống mãn phần.
Cụ Trần Văn Hương
mỉm cười, trả lời (tiếng Pháp):
- Thưa ngài đại
sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Ðã đến nỗi như vậy, Mỹ
cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Ðại Sứ đến mời tôi ly hương,
tôi rất cảm ơn ông Ðại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và quyết định dứt
khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng CS vào được Saigon, thì bao
nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người
lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại chia xẻ một phần nào
niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông
Ðại Sứ đã đến thăm tôi.
Tới đây, tôi lại
nhớ đến liêm sỉ và tiết tháo của một người lãnh đạo Cam Bốt, một nước láng
giềng mà dân ta thường hay có thái độ coi thường. Ðó là ông hoàng Sirik
Matak, Phó Thủ Tướng Cam Bốt. Cũng tháng 4 định mệnh ấy (1975) khi quân
Khmer đỏ sắp tràn ngập Phnom Penh, Ðại Sứ Mỹ tại đây là John Gunther Dean
đến mời hoàng thân Sirik Matak lưu vong qua Mỹ. ông Sirik Matak từ chối và
trả lời bằng thư sau:
"Thưa Ngài và bạn thân (Excellence et Cher Ami) "
Tôi rất thành
thật cám ơn Ngài về cái thơ và đề nghị giúp đỡ của Ngài đưa chúng tôi đến
nơi tự do, nhưng tôi không thể ra đi một cách hèn nhát như thế.
Về phần Ngài và
quốc gia to lớn của Ngài, tôi không có một lúc nào không tưởng rằng Ngài
sẽ bỏ rơi một dân tộc đã chọn tự do. Quý Ngài đã từ chối bảo vệ chúng tôi,
chúng tôi không làm sao được. Ngài ra đi và tôi chúc cho Ngài và quốc gia
của Ngài tìm được hạnh phúc dưới bầu trời của quý ngài.
Nếu tôi chết ở
đây trong nước tôi mà tôi yêu, thì thôi mặc, bởi vì tất cả chúng ta đã
được sanh ra để rồi một ngày nào đó thì chết. Tôi chỉ có làm một lỗi lầm
là đã tin nơi Ngài và tin nơi những người Hoa Kỳ.
Xin Ngài và bạn
thân, nhận nơi đây những cảm tình trung thực và thân ái của tôi.
Sirik Matak,
Theo lời người
dịch, thư này sau mấy năm, có lần được đọc trong một phiên họp Quốc hội
Hoa Kỳ, và được lưu giữ trong văn khố Quốc Hội. (Trích bài biết của BS
Nguyễn Lưu Viên, tập san Y Tế số III, tháng 3 năm 1998).
Hứa Hoành
|