TỪ HÀ NỘI ÐẾN SÀI GÒN
Hà Nhân
Tin các báo tuần qua cho biết chính
quyền CSVN đang nghiên cứu và chắc là sẽ chấp thuận quy chế quản lý và
kinh doanh riêng biệt cho thành phố Sài Gòn. Tuy là một việc làm không
bình thường trong một chế độ Cộng Sản, nhưng đó là điều các lãnh tụ đảng
CSVN không thể né tránh.
Các bản tin của các cơ quan truyền
thông do đảng CSVN kiểm soát không nói rõ chi tiết về những qui định riêng
biệt cho Sài Gòn. Nhưng có thể phỏng đoán rằng chính quyền CSVN tại Sài
Gòn sẽ được dành cho quyền hạn rộng rãi hơn trong việc quản lý kinh tế,
doanh thương trong đó có quyền phê chuẩn các dự án đầu tư của người nước
ngoài và các dự án kinh doanh của tư nhân trong nước có mức vốn cao hơn
rất nhiều so với các nơi khác trong nước. Ðồng thời chính quyền CSVN ở Sài
Gòn cũng có thể được dành cho thẩm quyền rộng rãi hơn về xuất nhập cảng và
một số hoạt động lặt vặt khác.
Trên thực tế từ sau ngày 30/4/75
chính quyền CSVN ở Sài Gòn đã tự ý hành sử quyền hạn cai trị rộng lớn hơn
hẳn hai thành phố khác có cùng quy chế “thành phố thuộc trung ương”
là Hà Nội và Hải Phòng. Ngoài ra không riêng gì Sài Gòn, các tỉnh và thị
xã khác ở Miền Nam cũng có khuynh hướng tự dành cho mình quyền hạn nhiều
hơn ý muốn của cấp trung ương.
Sở dĩ có tình trạng quân hồi vô
phèng này là vì vai trò quan trọng của cấp ủy địa phương trong hệ thống
đảng và chính quyền CSVN thời kỳ hoạt động bí mật cũng như trong chiến
tranh. Vào những thời kỳ ấy cấp tỉnh và nhất là huyện có quyền sinh sát
gần như tuyệt đối. Sau khi chiếm xong Miền Nam, bọn cán bộ tỉnh huyện lên
cầm quyền công khai vẫn tiếp tục quyền hạn cũ, trung ương không dám bức
bách. Từ đó nảy sinh thói quen lạm quyền của cấp địa phương kéo dài đến
nay.
Chính quyền CSVN ở Sài Gòn nhiều lần
không thi hành đầy đủ các huấn lệnh từ Hà Nội nhất là các chỉ thị không
thích hợp với thực trạng địa phương. Một thí dụ điển hình là lệnh cấm bác
sĩ mở phòng khám bệnh tư. Ðảng Ủy và Ủy Ban Nhân Dân Sài Gòn vẫn cho bác
sĩ khám bệnh lấy tiền ở phòng mạch, lấy cớ chính quyền không có đủ khả
năng khám và trị liệu cho toàn thể bệnh nhân thì phải cho bác sĩ hành nghề
thêm ngoài giờ làm việc tại các cơ sở y tế công.
Việc cấp quy chế quản lý đặc biệt
cho thành phố Sài Gòn vì thế phần nào có tính chất một văn kiện hợp thức
hóa một định chế có sẵn trên thực tế từ lâu đời đã thành cố tật không dễ
gì thay đổi.
Ngoài lý do nói trên, Sài Gòn còn có
một tư thế khá vững chắc để củng cố quyền hạn của mình trước trung ương
đảng và chính phủ CSVN. Ðó là tiềm năng khoa học kỹ thuật, văn hóa và quản
trị kinh doanh của thành phố này cũng như trên toàn thể Miền Nam. Cho đến
ngày nay sau 26 năm thống nhất, khả năng mọi mặt để phát triển của Sài Gòn
vẫn hơn hẳn Hà Nội.
Khi mới chiếm Miền Nam, dân chúng và
cán bộ từ Miền Bắc vẫn được nhồi sọ rằng kỹ sư, bác sĩ ở Miền Nam đều nhờ
hối lộ mà được phong chức, nên những bác sĩ kỹ sư này kém xa các chuyên
gia của “ta.” Nhưng chẳng bao lâu, sự thực được phơi bầy quá
rõ rệt. Những năm đầu thập niên 1980 khi ngoài Bắc bắt đầu xây nhiều nhà
cửa mới của chính quyền và tư nhân, người Miền Bắc cẩn thận mướn cai thầu
người Miền Nam khi dựng nhà cửa bê tông hai ba tầng trở lên. Dân chúng
không dám tin tưởng kỹ sư tốt nghiệp ở Miền Bắc hay Liên Xô vì sau năm
1954, nhiều công trình kiến thiết đã sụp đổ khơi khơi gây thiệt hại đôi
khi rất nặng.
Từ sau năm 1975, người Miền Nam được
nghe kể hàng ngàn giai thoại về những việc làm dốt nát ngây ngô của nhiều
chuyên viên, bác sĩ, kỹ sư xuất thân từ các trường Miền Bắc. Dĩ nhiên vẫn
có những bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ thụ huấn ở Liên Xô và Ðông Âu có khả năng
và trình độ khá cao, nhưng số này không nhiều và hầu hết không được trọng
dụng.
Trong khi ấy, tỷ lệ thợ chuyên môn
trong Nam rất cao về số lượng cũng như về khả năng chuyên môn. Báo chí của
CSVN từng công nhận điều đó khi thống kê cho thấy khoảng dưới 20 người dân
Miền Nam có một người biết sửa máy nổ. Tỷ lệ này ở Miền Bắc chưa tới 1/50.
Không những thế, thợ Miền Nam làm việc lương thiện, cẩn thận và tay nghề
cao hơn.
Về phương diện quản trị kinh tế và
doanh thương, dân Sài Gòn đã học hỏi và có kinh nghiệm nhiều về quản trị
kinh doanh và thủ tục hành chánh. Những kinh nghiệm quý báu ấy được hấp
thụ từ các trường lớp ở ngoại quốc và trong nước là những cơ sở giáo dục
và huấn luyện có thực chất. Ngoài ra trong những năm chiến tranh người Mỹ
quân sự cũng như dân sự đến Việt Nam đông đảo cũng góp phần tốt về mặt
này.
Nhà thầu Mỹ đã huấn luyện nhiều thợ
chuyên môn về cơ khí, kiến trúc có tay nghề tinh xảo. Ngoài ra, nhân viên
người Việt làm cho các cơ quan dân sự Mỹ, các đơn vị yểm trợ quân đội Mỹ
cũng học hỏi được nhiều điều hữu dụng về kỹ thuật hành chánh. Sau nữa là
những nhà thầu và các cơ sở tư nhân giao dịch với nước ngoài hay cung cấp
các dịch vụ cho quân đội Mỹ ở Việt Nam đều quen thuộc và rành rẽ những lề
lối quản trị kinh doanh và nhân sự có khoa học, năng suất cao.
Khi mới chiếm xong Miền Nam, chế độ
CSVN vội vã cải cách làm tan nát hệ thống kinh tế tự do vốn đã tạm vững
chắc và có liên kết phối hợp chặt chẽ vì ngu dốt không hiểu nổi những
tương quan chủ yếu trong kinh tế thị trường. Ông Nguyễn Văn Linh lúc làm
bí thư thành ủy năm 1985 đã công nhận việc làm mù quáng nói trên trong
cuốn sách “Mười Năm Thành Phố HCM.”
Từ năm 1986, CSVN dần dần quay sang
cải tổ kinh tế. Doanh gia ngoại quốc theo nhau bỏ vốn đầu tư vào Việt Nam.
Nhưng đa số doanh gia ngoại quốc ưa bỏ vốn vào Sài Gòn và Miền Nam hơn
(60%?). Lý do dễ hiểu là công nhân và chuyên viên ở đây đáng tin tưởng
hơn. Ngay như trong các cuộc giao dịch, thương lượng với doanh gia ngoại
quốc nhất là ở Lào và Cam Bốt, các đối tác từ Miền Nam Vĩ Tuyến 17 vẫn
được ưu đãi hơn.
Nền kinh tế ở Sài Gòn trong hơn 10
năm qua luôn luôn có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất nước, rõ ràng là do trình
độ kỹ thuật và khả năng quản trị kinh doanh thích nghi với nền kinh tế thị
trường ở mức độ cao. Tuy nhiên có một yếu tố đáng lưu ý là vai trò của
doanh gia người Việt gốc Hoa trong nền kinh tế và doanh nghiệp ở Miền Nam
hay đúng hơn là ở Chợ Lớn.
Sau chiến dịch đánh tư sản năm 1978,
người Hoa bị loại khỏi thương trường trên nguyên tắc. Nhưng từ ngày Hà Nội
bắt đầu cải tổ kinh tế thị trường, người Hoa dần dần tái chiếm thương
trường ít nhất là trong vùng Sài Gòn. Nhờ lối làm ăn theo giao ước miệng,
họ thành lập các thương hội đủ cỡ hạng. Chỉ với những hợp đồng bất thành
văn và phân công từng giai đoạn kinh doanh hay trong thủ công nghiệp,
doanh nhân người gốc Hoa đã tái tạo được ưu thế trong nền kinh tế ở Việt
Nam. Ưu thế đó tất nhiên có phần nào do tệ nạn tham nhũng ở mức cao nhất
thế giới.
Sau bao nhiêu năm tuyên truyền vu
cáo, phỉ báng Mỹ và Miền Nam, nay đảng CSVN Hà Nội đành chịu thua
“tàn dư của đế quốc Mỹ và Ngụy Sài Gòn” sau khi thắng về quân sự.
Phần nào thực tế đã trả lời câu hỏi do phe Cộng Sản nêu lên từ hơn 70 năm
qua: “Ai Thắng Ai?” và câu hỏi của người dân Việt Nam
“Ai Là Tay Sai Hèn Hạ Nhất Của Mỹ?”
Chắc chắn Mỹ đang thắng lớn. Và nếu
dựa vào liên hệ giữa VNCH để cho rằng Miền Nam là tay sai của Mỹ từ 1955
đến 1975 thì Hà Nội cũng đang là tay sai bán nước của Mỹ và các nước có
làm ăn ở Việt Nam, sau hơn 40 năm làm tay sai bán nước cho Trung Cộng và
Liên Xô.
Riêng về mức độ hèn hạ thì Hà Nội
vượt xa Sài Gòn dù lâu lâu đảng và chính quyền CSVN gồng mình chơi trò lì
lợm khó dễ với các cường quốc để giữ sỉ diện hão, ra điều ta đây có chủ
quyền. Nhưng chỉ cần xem những gì mà Hà Nội nhắm mắt bắt chước mau lẹ và
bừa bãi lề lối của Mỹ và các nước tư bản, trong đó nhiều cái xấu mà ít cái
tốt, là đủ để đi tới những kết luận trên.
Hà Nhân
|