Samoa:
Thợ Việt Tố Nhà Nước CSVN Tội Buôn Người
Trong thời gian qua trên báo chí Việt ngữ và
Anh ngữ có nhiều bài tường thuật tình trạng của công nhân Việt lao động
hợp đồng tại American Samoa. Các bài này phơi bày chuyện công ty Daewoosa
Samoa bóc lột và bạc đãi công nhân Việt. Tuy nhiên các bài này đa õthiếu
sót về hai điểm. Ðiểm thứ nhất là đã không nêu lên được tính cách buôn
người có hệ thống của sự vụ. Ðiểm thứ hai là đã không đặt thành vấn đề sự
liên can của Việt Nam trong đường dây buôn người này.
Trong loạt bài này, chúng tôi lần lượt công
bố những dữ kiện có thể công bố được để làm sáng tỏ hai điểm này.
Khởi Thuỷ Vấn Ðề
Ngày 27 tháng 3,Tổng Trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ
John Ashcroft họp báo công bố thể thức áp dụng Ðạo Luật Bảo Vệ Nạn Nhân
Của Sự Buôn Người (Trafficking Victims Protection Act of 2000) được ban
hành ngày 28 tháng10 năm ngoái. Ông Ashcroft đã dùng trường hợp công ty
Daewoosa để dẫn chứng cho sự buôn người theo định nghĩa của đạo luật, và
thông báo cho biết là cơ quan FBI đã bắt ông Kil SooLee, chủ công ty
Daewoosa, dẫn độ về Hawaii để truy tố. Ðiều này cho thấy sự việc không đơn
thuần là một trường hợp ngược đãi công nhân mà thực chất là một vụ buôn
người. Trong đường dây buôn người này, chính quyền Việt Nam là nguồn cung
cấp công dân của họ cho ông Lee.
Vụ buôn người có hệ thống đã kéo dài trong
suốt 2 năm. Ðầu năm 1999 Việt Nam hoàn tất bản hợp đồng với hãng Daewoosa.
Ngày 8 tháng 2, 1999 Việt Nam gởi đợt công nhân đầu tiên đến American
Samoa, gồm 28 phụ nữ. Ngay từ những ngày đầu, các phụ nữ này đã lập tức
trở thành nạn nhân của sự ngược đãi và bóc lột của ông Lee và thuộc hạ của
ông. Họ bị giam lỏng và cô lập với thế giới bên ngoài và phải lao động
không lương trong những điều kiện hết sức khắc nghiệt.
Ðến ngày 8 tháng 3 Việt Nam lại gởi tiếp đợt
22 phụ nữ và số nữ công nhân này cũng chịu cùng số phận với những người đi
trước. Sau nhiều tháng không được trả lương, số 50 phụ nữ này cử người đại
diện gặp ông Lee để xin lãnh lương thì bị hăm doạ, mạt sát, và bỏ đói. Họ
phải cho người ra ngoài xin ăn. Khi bị bắt gặp, những phụ nữ bị tình nghi
là chủ động trong nhóm đã bị ông Lee gọi cảnh sát tống giam chờ ngày trục
xuất về Việt Nam. Khi hay tin, một hội đoàn từ thiện tại địa phương đã
đứng ra tìm luật sư tình nguyện để can thiệp và tiến hành kiện hãng
Daewoosa về tội quịt tiền lương và không tôn trọng bản hợp đồng đã ký kết
với các công nhân Việt. Vì b ịthưa, Ông Lee đồng ý trả lương cho một số nữ
công nhân nhưng cũng chỉ được một lần rồi thôi.
Các nữ công nhân này không có lối thoát khỏi
tình cảnh bị bóc lột sức lao động này. Theo luật của American Samoa thì
mỗi khách lao động đều phải đóng tiền cho chính phủ Samoa để mua vé máy
bay khi cần hồi hương. Tuy nhiên trong trường hợp của các công nhân Việt
thì tiền máy bay của họ lại bị ông Lee giữ. Mặt khác, theo bản hợp đồng mà
các công nhân này đã ký kết với cơ quan xuất khẩu lao động IMS thuộc Bộ
Lao Ðộng Việt Nam thì họ sẽ bị phạt năm ngàn Mỹ kim nếu vì bất cứ lý do
nào không hoàn tất bản hợp đồng. Ðó là chưa kể khoản tiền rất lớn mà mỗi
công nhân đã phải vay mượn để nộp cho cơ quan IMS để được tuyển chọn đi
lao động. Trong tình trạng bị bức bí, các công nhân Việt đã liên tục gởi
fax về cho cơ quan IMS, cho các cơ quan truyền thông ở Việt Nam, và cả Ông
LêVăn Bàng ở toà đại sứ Việt Nam ở Hoa Kỳ để cầu cứu.
Thay vì bênh vực cho các công nhân Việt, đại
diện tại chỗ của chính quyền Việt Nam và phái đoàn cán bộ đến từ Việt Nam
đã phối hợp với ông Lee đổ lỗi cho các phụ nữ này và áp lực họ rút tên ra
khỏi vụ kiện. Mặt khác Việt Nam vẫn tiếp tục tuyển hàng trăm công nhân,
lấy tiền của họ, và đưa họ sang American Samoa; các công nhân này lần lượt
theo nhau trở thành nạn nhân của ông Lee. Khi sự phản kháng của các công
nhân Việt trở thành gay cấn thì ông Lee dàn xếp cho một số người bản xứ
hành hung gây trọng thương cho một số công nhân Việt để dằn mặt mọi người.
Ông Lee không dè là vụ hành hung này đã tạo điều kiện để chính phủ Liên
Bang Hoa Kỳ can thiệp vào và đã đánh động sự chú ý của giới truyền thông
Hoa Kỳ.
Thái độ kể trên của Việt Nam rất dễ hiểu. Một
đằng, họ muốn bảo vệ nguồn lợi tài chánh rất to lớn trong vụ đưa công nhân
sang American Samoa. Mỗi công nhân muốn tham gia chương trình phải đóng từ
4 đến 8 ngàn Mỹ kim cho công ty IMS để được tuyển chọn và ký hợp đồng lao
động, với hứa hẹn một đồng lương đáng kể. Về mặt chính sách thì chính
quyền Việt Nam xem American Samoa như là một thí điểm quan trọng trong kế
hoạch xuất khẩu nhân công sang Hoa Kỳ. Do đó khi luật sư bênh vực cho các
công nhân Việt vừa tiến hành vụ kiện thì chính thủ tướng Phan Văn Khải đã
trực tiếp chỉ thị cho Ông Phạm Ðỗ Nhật Tân, Giám Ðốc công ty xuất cảng lao
đông IMS, phải giải quyết êm thắm vụ này nhằm bảo vệ cho chương trình xuất
khẩu nhân công của Việt Nam. Ngay sau đó Ông Tân và nhiều cán bộ của công
ty IMS đã liên tục áp lực các công nhân này phải phủ nhận những việc đã
xẩy ra và ký vào bản hợp đồng mới do công ty Daewoosa soạn rất bất lợi cho
người lao động. Những ai không hợp tác thì thân nhân ở Việt Nam bị làm khó
dễ.
Như thế Việt Nam không thể chối cãi là họ
không biết gì. Họ đã biết và đã can dự vào sự vụ ngay từ buổi đầu. Họ đã
hợp tác chặt chẽ với công ty Daewoosa trong một vụ buôn người rất trắng
trợn.
Sau đây là thư cầu cứu và bản tường trình của
nhóm phụ nữ đầu tiên đến lao động hợp đồng tại American Samoa. Lá thư cầu
cứu tóm tắt những sự kiện xẩy ra cho họ còn bản tường trình kể lại chi
tiết nội vụ mà ít người biết đến.
Hai trong số người được nhắc đến trong bản
tường trình là các chị Nga và Dung đã chết đuối tại American Samoa ngày 27
tháng 8 năm ngoái. Họ đã không sống để được hưởng không khí tự do tại Hoa
Kỳ và sự đùm bọc của cả khối cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Họ đã không
sống để thấy được công lý khi cơ quan FBI tống giam ông chủ Kil Soo Lee.
*
THƯ CẦU CỨU SAMOA
19/6/1999
Kính gửi: Ông thống đốc SAMOA
Ông Rose - Joneson (Văn phòng luật sư)
Ông Kenvin and Job (Hội từ thiện)
Chúng tôi là những nữ công nhân Việt Nam đang
ở đảo Samoa muốn viết đơn này xin các quý ông giúp đỡ chúng tôi một việc
như sau:
Chúng tôi sang đây làm việc mục đích là để
kiếm tiền nhưng trong thời gian chúng tôi sống và làm việc ở đây Ông Chủ
đã đối xữ rất tồi tệ. Các quý ông là những người đã tìm hiểu và chứng kiến
tất cả những sự việc sảy ra vừa qua đối với chúng tôi. Chúng tôi rất mong
muốn các ông xác nhận cho chúng tôi những việc đó:
1/- Chúng tôi đã làm việc được gần hai tháng
nhưng phía chủ không trả lương.
2/- Chúng tôi đã bị bỏ đói từ chiều ngày 27/3
đến hết ngày 28/3 đã có một số người đến hội từ thiện để ăn cơm.
3/- Ngày 29/3 cảnh sát đã đến ký túc xá bắt
người vô cớ vì vậy đã có 4 người bị ngất phải đưa đi viện cấp cứu.
4/- Chúng tôi bị nhốt và không được thông tin
liên lạc ra bên ngoài do đó đã có một người phải bỏ ra ngoài để tìm cách
liên lạc về các cơ quan chức năng.
5/- Trong thời gian này hội từ thiện tại đảo
Samoa đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều để đưa được thông tin của chúng tôi
về nước.
6/- Theo như luật Samoa thì người lao động
đến làm việc tại đây không phải nộp cho cục xuất nhập cảnh một khoản tiền
nào để bảo lãnh thực hiện hợp đồng vì vậy số tiền 1500 USD chúng tôi đã
nộp khi đến Samoa gồm 1000 USD làm thẻ định cư và 500 USA đặt cọc bảo lãnh
hợp đồng là hoàn toàn sai luật pháp của Samoa.
Chúng tôi những nữ nhân công nhân Việt Nam
xin được trân trọng gửi tới các quý ông lời biết ơn sâu sắc nhất.
*
BẢN TƯỜNG TRÌNH
Chúng tôi gồm 17 người trong số 28 người công
nhân nữ sang đảo Samoa vào đợt một vào ngày 8/2/1999. Qua công ty IMS
tuyển dụng đưa sang làm may tại công ty Daewoosa - Samoa.
Trước khi sang đây chúng tôi đã được ký hợp
đồng với phía công ty IMS vào ngày 5/2/1999. Mỗi tuần làm việc 40 giờ được
hưởng lương cơ bản từ 390 USD (Mỹ kim)/tháng làm thêm ngày thường hưởng
150%, ngày lễ hưởng 200% theo mức lượng cơ bản - được hưởng lương từ khi
đặt chân tới công ty. (Mọi chi phí sinh hoạt ăn ở phía chủ đài thọ).
Ngày 10/2/1999 chúng tôi bắt đầu làm việc tại
Daewoosa, sau quá trình làm việc thời gian 1 tháng, chúng tôi phải làm
việc 9 tiếng trong 1 ngày và cả thứ Bảy trong tuần trong điều kiện sinh
hoạt ăn ở hết sức thiếu thốn, đến cảnhững tiện nghi tối thiểu nhất cho cá
nhân cũng không có như chậu, cốc chén, xà phòng, giấy vệ sinh... Vì vậy
chúng tôi có đề nghị phía chủ thực hiện theo hợp đồng chúng tôi đã ký với
công ty IMS, nhưng đã rất nhiều lần ông chủ trì hoãn, và khất lần chúng
tôi đợi đợt tới đoàn hai sang ông sẽ mời luật sưđến làm hợp đồng luôn thể.
Khi đoàn hai đến vào ngày 8/3/1999 đã ổn
định, chúng tôi có yêu cầu ông Minh đại diện của công ty IMS đàm phán với
phía chủ để yêu cầu ông chủ trả lương và sớm làm bản hợp đồng cho chúng
tôi yên tâm làm việc. Nhưng qua cuộc họp giữa phía chủ và chúng tôi có đề
nghị với ông chủ xin nghỉ làm chờ ký hợp đồng theo như lời ông chủ nói.
Sau 2 ngày nghỉ làm việc không thấy luật sư đến và cũng không được trả
lương, chúng tôi lại tiếp tục đi làm và chờ đợi đến ngày 25/3/1999 thì
nhận được FAX của công ty IMS với nội dung có thay đổi thời gian làm việc
44giờ trong một tuần. Bởi vậy chiều ngày 27/3/1999 (tức thứ Bảy) chúng tôi
đã nghỉ theo như nội dung bức FAX đó.
Khi hết thời gian làm việc buổi sáng, chị em
trở về nhà ăn dùng bữa cơm trưa, có một vài chị em do nhớ nhà và vấn đề
lương cũng như hợp đồng phía chủ không làm rõ ràng nên trong bữa ăn đó có
khóc. Lẽ ra ông chủ là người đến động viên cho họ bớt đi nỗi buồn đó,
nhưng lúc đó ông chủ lại lên nhà ăn đã hất toàn bộ đồ ăn còn trên bàn của
ban lãnh đạo công ty sau khi họđã dùng xong, trước sự chứng kiến của nhiều
chị em đang ăn ở đó. Một số chị em đang ăn do sợ hãi đã đứng lên và trở về
ký túc xá. Lúc sau ông Hwang thừa lệnh ông chủ gọi cho ai khóc lên gặp ông
chủ ngay, chúng tôi có hỏi lý do, ông ta tỏ thái độ bất nhã.
Chúng tôi thấy sự việc xảy ra thật bất bình
gây sợ hãi cho mọi người nên chị em cùng nhau lên hết nhà ăn gặp ông chủ
để rõ lý do, thì hai ông phó giám đốc công ty Daewoosa là ông Hwang và ông
Ya đã chửi mắng và sỉ vả thậm tệ chị em chúng tôi, và đuổi chúng tôi ra
khỏi nhà ăn. Có một vài người đứng lên đại diện thay mặt 50 chị em hỏi tại
sao ông lại sử sự như vậy thì lập tức ông Ya đá bể cả chồng khay ăn cơm,
định hành hung chúng tôi. Sau khi sự việc xảy ra như vậy, ông chủ đi từ
văn phòng lên, ông không sử sự khác hai ông kia như chúng tôi nghĩ, mà còn
tuyên bố rằng: "Ngay chiều nay sẽ mua vé máy bay cho chúng tôi (50
người) trở về Việt Nam, cũng bắt đầu từ chiều nay(27/3/1999) không cho nhà
bếp nấu cơm cho người Việt Nam ăn nữa".
Ðiều đó được thực hiện đúng như lời ông chủ.
Ðến 2 giờ chiều ngày 28/3/1999 vì quá đói và mệt mỏi, một số người trong
đoàn phải ra ngoài đi xin đồ ăn vì đã hơn một tháng mà chúng tôi vẫn không
được nhận lương nên không ai có tiền để mua đồ ăn cả, đến cả phương tiện
thông tin phía chủ cũng cắt luôn. Lo sợ cho hiện thực bị kéo dài chị em
chúng tôi đã viết FAX nhờ hội từ thiện tại Samoa giúp đỡ FAX về công ty
IMS bức điện khẩn kêu cứu nói rõ thực trạng đang diễn ra tại công ty
Daewoosa để công ty IMS can thiệp.
Tối hôm đó 28/3/1999 ông chủ đã thông báo họp
toàn bộ chị em trong đoàn. Trong cuộc họp hôm đó, ông chủ đãkhông nói gì
đến vấn đề trả lương mà chủ yếu là những lời sỉ mắng chúng tôi thậm tệ,
xúc phạm đến nhân phẩm người phụ nữ Việt Nam, cụ thể là ông đã vu khống
cho một số chị em đi lên khách sạn, lên tàu đánh cá để kiếm tiền.
Sáng ngày thứ hai (ngày 29/3/1999) mọi người
do quá mệt mỏi vì bị bỏ đói hơn một ngày nên không thể đi làm được, khoảng
2 giờ chiều cùng ngày ông Hwang xuống ký túc xá bắt tất cả mọi người nộp
lại thẻ ID cho ông ta. Chúng tôi thiết nghĩ thẻ này là quyền sở hữu riêng
của mỗi người vì khi đi làm thẻ thì người của cục xuất nhập cảnh cũng như
ông chủ có dặn là phải giữ thẻ cẩn thận không được đánh mất. Làm thẻ ID
khi xong đến đây chúng tôi mỗi người đã phải nộp cho ông chủ số tiền là
1500USD (trong đó 1000USD để làm thẻ còn 500USD để đặt cọc đảm bảo hợp
đồng). Chị em chúng tôi đang thảo luận với nhau thì ông Hwang lại tới và
gọi 3 chị: Thư - Nga - Thúy lên văn phòng có việc. Sau đó các chị quay về
ký túc xá được một lúc thì ở ngoài sân của công ty Daewoosa có 2 xe cảnh
sát tớị Ông Hwang cầm 3 quyển hộ chiếu gọi 3 chị ra. Chị Thư là người ra
trước, và ngay lập tức bị cảnh sát sốc nách lôi ra xe, mọi người ở trong
phòng do quá bất ngờ đã cùng xô ra; có người hỏi lý do tại sao lại bắt
người một cách vô lý, thì không có ai nói gì. Còn lại tất cả chị em quá
bất bình và phẫn nộ đã kêu khóc lôi chị Thư lại. Vì quá uất ức và sợ hãi
khi lôi được chị Thư lại khỏi tay cảnh sát, chúng tôi chỉ nghe thấy chị
nói rất nhỏ "Tại sao lại bắt người vô lý" rồi chị ngất đi.
Chị em chúng tôi đã khiêng chị Thư vào phòng để hô hấp. Tiếp đó phía chủ
vẫn tiếp tục cho cảnh sát tìm bắt chị Nga -- Thúy. Lúc đó chị Nga đang ở
trong Toilet thì bị anh bảo vệ công ty và chị thư ký Lusia đã xông thẳng
vào trong lôi chị Nga ra. Do quá hoảng loạn và khiếp sợ chị cũng bị ngất.
Nhất là trong lúc này chính ông chủ đã xông thẳng vào ký túc xá, có hành
động và thái độ không tốt đòi bắt luôn cả chị Thu. Nghe bị bắt, chị Thu
quá sợ hãi cũng đã ngất trong trạng thái không bình thường -- cả chân tay
đều co giật. Lúc đó tất cả mọi người chứng kiến cảnh đó, đều trong tình
trạng hoảng loạn và quá khiếp sợ vì những hành động của phía chủ nên có
thêm một số người nữa ngất như chị Hường, chị Liên, người phiên dịch khi
chị vừa dịch xong câu nói của ông chủ: "Ông ấy sẽ dùng vu õlực"
do quá sợ chị cũng ngất luôn.
Vì quá nhiều người ngất và có nguy cơ ảnh
hưởng đến tính mạng nên phía chủ không còn cách nào khác phải gọi xe cứu
thương tới, và họ đã đưa 4 chị vào bịnh viện để cấp cứu, đó là chị Thư -
Nga- Liên - Thu. Còn chị Thúy thấy bị bao vây bắt người vô cớ nên chị sợ
quá đã chạy ra khỏi ký túc xá sau đó chị bị cảnh sát bắt luôn. Ðến chiều
tối hôm đó thì phía chủ đã đưa 2 chị Liên và Thu trở về ký túc xá, còn 3
chị kia chúng tôi không biết là họ mang đi đâu. Hai người được đưa về có
chị Thu vẫn trong tình trạng bị co giật nặng. Hôm sau chị em tôi có yêu
cầu phía chủ đưa chị đi bịnh viện, nhưng phía chủ chỉ hứa, chứ không đưa
đi. Bị ảnh hưởng lớn của hôm đó mà bệnh của chị kéo dài tới gần 2 tháng
sau.
Ðến sáng hôm sau 30/3/1999 chúng tôi mới được
biết một tin khủng khiếp là 3 chị đã bị nhốt trong tù. Những ngày các chị
ở trong tù chúng tôi rất lo lắng cho tình trạng sức khoẻ cũng như tính
mạng của các chị. Bằng mọi cách (mặc dù tất cả chị em còn lại bị phía chủ
nhốt trong công ty, và phong toả mọi thông tin) chúng tôi đãliên lạc và
được sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh Việt Nam làm ở dưới tàu đánh cá
chuyển giúp số FAX kêu cứu của chúng tôi về công ty IMS qua hội từ thiện
giúp đỡ, yêu cầu phía công ty IMS can thiệp với phía chủ thả 3 chị ra khỏi
nhà tù, nhưng phía chủ vẫn không thay đổi quyết định. Do đó chị Dung đã
tìm cách trốn ra ngoài lên hội từ thiện để dễ nhờ chuyển thông tin qua các
bức FAX kêu cứu về Việt Nam, đại sứ quán Việt Nam tại Mỹcũng như các cơ
quan có chức năng ở Việt Nam.
Trong suốt một tuần phía chủ đã nhốt chúng
tôi không cho ra ngoài, sau đó vào buổi chiều cho mỗi người ra ngoài chỉ
trong vòng 10-15 phút vàmỗi lần ra là 5 người. Ðiều này hết sức vô lý vì
chúng tôi thực tế không vi phạm pháp luật, vậy chúng tôi phải làngười tự
do -- tại vì lý do gì phía chủ lại nhốt chúng tôi như thế? Và chúng tôi
xin nói thêm rằng trước lúc xảy ra sự việc bắt người vô cớ, thì ông chủ ở
đây có những hành động không tốt như, không bao giờ ông vào ký túc xá gõ
cửa, bất kể là tối hay ban ngày. Ông chủ luôn vào ký túc xá nữ chúng tôi
như vậy, nhiều lần chị em đang nằm ngủ ông chủ vào nằm bên cạnh một số
người.
Và sau ngày 29/3/1999 qua tất cả sự việc trên
xảy ra khiến chúng tôi quá khiếp sợ, và mất hết lòng tin ở phía chủ, nên
chúng tôi không còn tinh thần để tiếp tục làm việc được nữa.
Ngày 30/2/1999 phía chủ nói là trả lương
nhưng chỉ trả cho 22 người đợt một (đến vào ngày 8/2/1999) còn 6 người
không trả đó là 3 chị bị bắt Thư - Nga - Thúy và 3 chị tiếp là Hường -
Thủy - Huyền không nêu lý do gì và chúng tôi nhận lương người cao nhất mới
được 150USD còn trung bình mỗi người được 100 USD.
Sau đó đến ngày 13/4/1999 vụ này đã được nhờ
tới luật sư can thiệp chúng tôi mới được nhận đủ số tiền mà chúng tôi đã
làm việc trong thời gian qua.
Ở đây chúng tôi cũng có thể nói tới ông Phạm
Thế Minh là đại diện của công ty IMS đã sang Samoa để giải quyết những vấn
đề của chúng tôi vào ngày 9/4/1999. Ông Minh đã đưa ra một bản hợp đồng
mới và khuyên chúng tôi ký vào và đi làm bình thường. Nhưng khi xem bản
hợp đồng đó, chúng tôi thấy hoàn toàn khác với bản hợp đồng mà chúng tôi
đã ký với công ty IMS trước lúc sang đây, và hơn nữa bản hợp đồng mới này
rất bất lợi cho người lao động, nên chúng tôi không thể chấp nhận ký vào
bản hợp đồng mới, bởi vậy chúng tôi vẫn tiếp tục nghỉ làm chờ giải quyết.
Ðồng thời chính trong thời gian này, chúng tôi thấy hai ông người Hàn Quốc
là ông Hwang và ông quản đốc xưởng may đãrời bỏ công ty Daewoosa trở về
nước, không biết vì lý do gì?
Cho đến ngày 23/4/1999 có ông Phạm Ðỗ Nhật
Tân sang nói là thay mặt chính phủ Việt Nam và cùng đi có ông Lê Trung
Nghĩa, phó giám đốc công ty IMS. Ông Kim là người Hàn Quốc đã sống và lấy
vợ Việt Nam sang để thay người quản lý ở đây. Ðoàn sang lần này vẫn để
giải quyết về hợp đồng giữa chúng tôi với phía chủ. Ông Tân có nói là
chúng tôi cứ đi làm để 2 bên đàm phán để giải quyết hợp đồng và chúng tôi
đã đồng ý tạm thời đi làm. Nhưng vào ngày 29/4/1999 đoàncông tác: ông Tân,
ông Nghĩa đã có cuộc họp với chúng tôi, đưa ra bản hợp đồng bằng tiếng Anh
và bản dịch tiếng Việt chép tay với nội dung cũng gây bất lợi cho người
lao động không kém bản hợp đồng trước ông Minh đã đưa ra. Nên chúng tôi
một lần nữa không thể chấp nhận ký hợp đồng được. Trong thời gian này biết
là bản hợp đồng không thể thay đổi được, các ông Tân, Nghĩa luôn tìm mọi
cách, mọi hành động cũng như lời nói tác động vào tâm lý chị em để sau đó
cũng có 16 người chấp nhận ký vào bản hợp đồng mới.
Còn lại số người không chấp nhận ký vào bản
hợp đồng, các ông luôn thông tin sai lệch về chúng tôi ở bên này cho các
gia đình chúng tôi ở Việt Nam, với mục đích là để các gia đình hiểu lầm về
con em mình. Ðã có nhiều gia đình liên tục gọi điện và FAX từ Việt Nam
sang để thúc dục con em mình ký vào bản hợp đồng mới để đi làm, nên đã có
một số người phải ký vào hợp đồng vì sức ép quá lớn từ phía gia đình, mặc
dù nhữngngười này cũng được biết ông chủ ở đây rất nghèo và không tốt,
nhưng không còn cách nào khác.
Vào ngày 10/5/1999 có đoàn thanh tra của bộ
lao động Mỹ sang điều tra công ty Daewoosa và có cuộc trao đổi với chúng
tôi, có hỏi chúng tôi về mấy vấn đề như: ăn, ở, thời gian làm việc, đặc
biệt là vấn đề chúng tôi phải nộp cho ông chủ Lee Kil Soo số tiền 1500USD
mỗi người khi sang đây làm việc. Chúng tôi được đoàn thanh tra cho biết
theo luật Mỹ thì sang Samoa làm việc chúng tôi không phải nộp một khoản
tiền nào cả và ông chủ thu mỗi người 1500USD là không đúng.
Mọi vấn đề khúc mắc của chúng tôi vẫn chưa
được giải quyết xong thì vào ngày 14/5/1999 công ty IMS lại đưa một đoàn
lao động gồm 16 người sang. Tối ngày 19/5/1999 tại Daewoosa có cuộc họp
mặt giữa chúng tôi (những người không chấp nhận bản hợp đồng mới) với ban
lãnh đạo của công ty Daewoosa và cả đại diện của công ty IMS. Trong cuộc
họp có đưa ra một số giấy tờ nói là đơn kiện của 4 người Việt Nam đại diện
cho 50 người chúng tôi vàông chủ nói rằng "Các bạn hãy nhượng bộ ký
vào đơn này phủ nhận toàn bộ sự việc trước đây thì các bạn sẽ nhanh chóng
trở về Việt Nam, nếu không thì sẽ ở lại đây ít nhất là từ 3 đến 4 tháng và
nhiều nhất là từ 1 đến 2 năm. Vàtrong thời gian ăn ở tại đây các bạn phải
chịu chi phí tiền ăn ở là mỗi người 50USD/ngàỵ" Ðiều này họ đã lập
lại nhiều lần, nhưng chúng tôi không chấp nhận ký vào bất cứ văn bản nào
phía Daewoosa đưa ra -- ông chủ tỏ ra tức giận và nói chúng tôi không tốt.
Chúng tôi lại phải đợi sự giải quyết từ hai
phía công ty IMS và công ty Daewoosa. Họ vẫn im lặng để chúng tôi trong
tình trạng tinh thần hoàn toàn suy sụp. Ðến ngày 12/6/1999 họ tiếp tục đưa
một đoàn công nhân gồm 17 người đến Samoa. Những người đến sau này sống
cách biệt và được nhắc là tránh tiếp xúc với chúng tôi. Chúng tôi không
hiểu tại sao đã có một số người trong đoàn mới đã lên xưởng làm việc khi
họ chưa có thẻ ID. Trong thời gian chúng tôi chờ đợi sự giải quyết từ hai
phía quá lâu nên cho đến ngày 18/6/1999 chúng tôi đã viết đơn đề nghị ông
Lee Kil Soo thanh toán lương và hoàn trả lại cho chúng tôi 1500USD mà
chúng tôi đã nộp cho ông chủ. Ngay ngày hôm sau lá đơn của chúng tôi được
trả lại từ ông Kim phó giám đốc, nhưng ông lại không đưa trả lại ai mà vo
viên lá đơn của chúng tôi nhét vào phòng, và chúng tôi được nghe giải
thích là hiện giờ chúng tôi không phải là người của công ty Daewoosa cho
nên tất cả mọi việc của chúng tôi, ông ta điều phải thông qua luật sư của
chúng tôi kể cả thanh toán tiền lương và số tiền 1500USD.
Ðây là bản tường trình toàn bộ sự việc xảy ra
đối với chúng tôi từ ngày tới công ty Daewoosa Samoa (8/2/1999) đến ngày
21/6/1999. Chúng tôi ghi lại những sự việc trên là hoàn toàn đúng sự thật.
Chữ ký xác nhận của 17 người sang đợt một
(8/2/1999) Ðoàn Thị Hương, Lê Thị Chuyên, Trần Thị Thu Huyền, Bùi Thị Mơ,
Nguyễn Thị Hường, Hồ Kim Chi, Vũ Thị Minh Thủy, Ngô Thị Hường, Nguyễn Thị
Hồng Loan, Ðào Thị Thảo Nguyên, Nguyễn Thị Huyền, Chu Thị Kim Hoa, Vũ Thị
Hồng Loan, Nguyễn Thị Bích Lan, Lê Bích Thủy, Nguyễn Thị Hường, Lê Thị
Thu.
|