SỬA ÐỔI HIẾN PHÁP
Hà Nhân
Chế độ CSVN gợi ý về việc sửa đổi
hiến pháp ngay khi Ðại Hội 9 Ðảng CSVN còn tiếp diễn. Từ đó đến nay ít
thấy các lãnh tụ hay giới chức cao cấp của đảng và của chính quyền lên
tiếng tiếp theo. Nhưng báo chí bên ngoài có nhiều lời đồn đoán. Dư luận ấy
cho rằng đảng CSVN muốn tỏ ra chấp nhận cải cách chính trị nhất là cải
cách pháp lý và hành chánh để hứa hẹn tạo điều kiện thuận lợi cho việc bỏ
vốn của ngoại quốc, xoa dịu những đòì hỏi của giới đầu tư nước ngoài và
các tổ chức quốc tế cùng các nước cấp viện, kể cả các tổ chức nhân quyền
quốc tế.
Từ lâu nay, các cường quốc dân chủ
và Hoa Kỳ vẫn sử dụng nhân quyền, tự do tôn giáo, tự do báo chí... làm
phương tiện bắt bí chế độ CSVN, mà mục đích chính có lẽ chỉ là để buộc Hà
Nội phải nhượng bộ những đòi hỏi của họ về kinh tế thương mại. Mục đích
phụ có thể là để làm yên lòng các tổ chức nhân quyền, nhân đạo, tôn giáo
đang công kích chế độ CSVN dữ dội. Các tổ chức và phe nhóm chống đối CSVN
nương vào những đòi hỏi này gây thêm áp lực đối với Hà Nội.
Hà Nội đối phó với áp lực từ bên
ngoài bằng chiến thuật thông thường của họ là lì lợm, ngoan cố trì hoãn
với hy vọng sẽ thắng thế vì Tây Phương vốn kém kiên nhẫn. Nhưng không phải
lúc nào Hà Nội cũng thắng thế bằng kiên nhẫn. Ngày nay, các nước Tây
Phương đã nắm vững quy luật của CSVN nhiều hơn so với 30 năm trước đây. Vì
thế Hà Nội phải suy nghĩ lại trước khi dùng những chiến thuật cũ trong
tình hình không còn thuận lợi cho họ.
Có thể là CSVN thực sự muốn sửa lại
hiến pháp. Sửa hiến pháp là việc không khó khăn gì đối với chế độ của họ.
Sau hiến pháp 1960, đã có nhiều lần Hà Nội sửa lại hiến pháp của họ mà lần
gần đây nhất là năm 1992. Chỉ cần viết quấy quá một bản văn sao chép
nguyên con các điều khoản mẫu mực sẵn có, rồi đem trưng cầu dân ý và đưa
ra quốc hội “gật” một loạt “nhất trí” là trong
vài tháng có ngay một văn bản nghe kêu như chuông mà thực sự bên trong
rỗng tuếch. Miễn là đáp ứng nhu cầu tình hình giai đoạn.
Vào thời còn thân thiện, còn dựa dẫm
vào Liên Xô trước lúc ông thầy Cộng Sản này sụp đổ, hiến pháp 1980 của
CSVN không tiếc lời ca tụng “đất nước và con người Liên Xô vĩ đại”
và xưng tụng tình hữu nghị bền chặt với Liên Xô trong Lời Nói Ðầu dài dòng
như một bài học chính trị sơ đẳng. Chức vụ Thủ Tướng được dùng khi còn
thân thiện với Bắc Kinh được đổi theo Liên Xô là Chủ Tịch Hội Ðồng Bộ
Trưởng. Sau khi Liên Xô tan rã, hiến pháp 1992 quay trở lại dùng từ ngữ
“thủ tướng” như trước.
Ðiều 4 HP 1992, cũng là điều 4 HP
1980 của CSVN, lấy nguyên ý của điều 6 Hiến Pháp Liên Xô (1977) được thu
gọn. Nguyên văn như sau: “Ðảng Cộng Sản Việt Nam, đội tiên phong của
giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội...”
Nhiều phong trào của người Việt tị
nạn gần đây lên tiếng đòi bãi bỏ điều 4 hiến pháp 1992, chấm dứt việc dành
cho Ðảng CSVN độc quyền thống trị đất nước. Những người này và các phe
phái có cùng quan điểm cho rằng đòi như thế là tập trung nỗ lực vào điểm
yếu nhất của CSVN về mặt pháp lý và danh nghĩa trong lúc lực lượng phe ta
chưa đủ mạnh. Ðó chỉ là một bước sơ khởi để từ đó tiến lên những bước khác
xa và mạnh hơn nhằm giải thể chế độ CSVN.
Nhiều người khác cho rằng không thể
chỉ đòi hỏi hủy bỏ một điều khoản, vì như thế là phải chịu hòa hợp hòa
giải với CSVN hay sao. Theo phe này, phải tranh đấu để giải thể toàn bộ
chế độ CSVN để triệt hạ toàn bộ cấu trúc tư tưởng, tổ chức đảng cũng như
chính quyền và ngoại vi của chế độ ấy.
Ở trong nước, mấy tháng qua có tin
gửi ra nước ngoài cho biết các nhân vật Cộng Sản cao cấp và trí thức như
ông Trần Ðộ, Trần Khuê và bà Nguyễn Thị Thanh Xuân cùng nhiều nhân vật
chống đối nổi tiếng khác đã góp ý, đã gửi thư ngỏ cho các lãnh tụ tối cao
CSVN đòi hỏi phải tức khắc hủy bỏ điều 4 hiến pháp 1992. Một tin từ Hà Nội
nếu được xác nhận của tổ chức Phục Hưng Việt Nam cho biết nhiều truyền đơn
đòi hỏi bãi bỏ điều 4 HP đã được tung ra ở Hà Nội và Sài Gòn.
Hầu như tất cả những đề nghị này đều
cho rằng điều 4 HP 1992 đã đặt đảng lên đầu nhân dân, giành độc quyền cai
trị nhưng không chịu sự kiểm soát của nhân dân dưới bất cứ hình thức nào
mặc dầu đảng CSVN vẫn cứ lải nhải nói “dân làm chủ.”
Trên thực tế, ngay từ 1950, tuy Hiến
Pháp 1946 và kế đó là Hiến Pháp 1960 không có điều nào như điều 4 nói trên
mà đảng CSVN vẫn ngồi lên đầu lên cổ nhân dân, tác oai tác quái, mượn chủ
nghĩa Cộng Sản làm chiêu bài vừa dụ dỗ vừa cưỡng ép quần chúng tôn thờ chủ
nghĩa Cộng Sản như một tôn giáo và xưng tụng lãnh tụ đảng như Thượng Ðế.
Nhưng khi quyền lực ấy được ghi vào văn bản đạo luật cao nhất của chế độ
thì nó có tác dụng thúc đẩy những kẻ cầm quyền mạnh tay trấn áp quần chúng
hơn, giống như một cửa tiệm có môn bài đại lý độc quyền thì mặc tình tăng
giá. Trong tình hình hiện nay, khó có thể mong đợi tập đoàn lãnh tụ đảng
CSVN chịu sửa đổi hiến pháp đến mức thực sự bãi bỏ hoàn toàn độc quyền
thống trị dù về hình thức có thể họ chịu rút lại điều 4. Họ còn nhiều
phương cách duy trì quyền lực độc tôn bằng những mưu mẹo hiểm độc và trơ
trẽn. Ít ra là trong thời gian mà những lãnh tụ trung ương của CSVN có
nhúng tay vào các tội ác trong chiến tranh quốc-cộng trước năm 1975 và các
hành vi độc địa sau năm 1975 còn sống, không có hy vọng Hà Nội chịu làm
theo tiếng gọi của lương tâm. Họ dư biết là sai trái nhưng đã lên
“voi” nên không muốn “xuống chó” nhục nhã, nên phải
tìm cách gìữ quyền lực càng lâu càng tốt. Khi nhắm mắt xuôi tay, mọi hậu
quả đã có con cháu họ gánh chịu.
Họa chăng vì vận nước hết cơn bĩ cực
mà có một thời cơ và một Gorbachev, một Yeltsin đứng lên làm thay đổi tình
hình thì đất nước mới thoát hồi đại hạn. Liên Xô tan rã cũng bắt đầu bằng
việc bãi bỏ độc quyền chính trị của đảng Cộng Sản. Nếu không, phải đợi khi
thế hệ lãnh tụ trẻ trong số con cháu họ lớn lên không có nợ máu, không bị
nhồi nhét căm thù giả tạo, bớt ngu dốt, có cơ hội mở mắt và ý thức được lẽ
phải, mới có thể trông mong có sự thay đổi tự phát.
Tuy nhiên, nếu các cuộc tranh đấu
của quần chúng ở trong nước và ngoài nước tạm đủ mạnh, chúng ta có thể
tiếp tay đáng kể cho những nỗ lực gây sức ép của cộng đồng các nước dân
chủ đòi hỏi CSVN phải lùi một hay nhiều bước quan trọng. Nếu không từ bỏ
độc quyền chính trị thì ít nhất họ cũng phải chấp nhận các điều kiện hợp
lý dành cho nhân dân quyền chính trị căn bản. Từ đó đảng CSVN tan dần vào
quá khứ, mai một từ tốn không tốn xương máu. Và đó là con đường duy nhất
bảo đảm mạng sống cho tập thể đảng, không sợ tái diễn cảnh tượng xẩy ra ở
Nam Dương năm 1967 khi một triệu rưỡi đảng viên Cộng Sản bị dân chúng tàn
sát sau cuộc đảo chính hụt của Cộng Sản thân Bắc Kinh.
Về phía người Việt ở hải ngoại, hiện
chưa có lập trường chung về một kế hoạch tấn công phối hợp vào thành lũy
của chế độ CSVN. Một chính sách chung như vậy phải dung hòa mọi chiến
luợc, chiến thuật từ ôn hòa đến cực đoan. Nhiên hậu tùy thời cơ và tình
hình mà áp dụng các chiến lược chiến thuật ấy nhắm vào những điểm yếu nhất
của địch. Ðiều 4 hiến pháp của Hà Nội là một trong những điểm ấy.
Dĩ nhiên, đường lối tranh đấu của
người Việt chống CSVN phải dứt khoát, không dừng lại ở chỗ CSVN chịu sửa
đổi hiến pháp. Nhưng không thể bỏ qua bất cứ cơ hội nào, không bỏ rơi bất
cứ ai có lập trường chống chế độ CSVN với quan điểm càng gần gũi chúng ta
càng tốt. Trên chiến trường và chính trường, một tập thể tranh đấu phải dự trù mục tiêu tối thiểu nếu không đạt được tối đa. Không một tập thể khôn ngoan nào vì thiển cận mà bỏ lỡ mục tiêu tối thiểu để từ đó tiến lên dành mục tiêu toàn bộ.
|