SỚ CHÍNH TRỊ
CỦA ÐẠI HỘI IX
Ðại Dương
Ðảng Cộng sản
Việt Nam họp Ðại hội theo chu kỳ 5 năm để biểu dương thành quả và phát họa
đường lối cho chu kỳ tới. Hà Nội phải mất khoảng 2 năm trong việc soạn
thảo Báo cáo Chính trị với một đội ngũ báo cáo viên chuyên nghiệp và sự
duyệt xét nhiều đợt của Ban chấp hành Trung ương.
Dự thảo Báo cáo
Chính trị do ông Nguyễn Phú Trọng, Thường trực Tiểu ban soạn thảo văn kiện
Ðại hội IX công bố ngày 17/7/2000 dài 25 trang để cho cán bộ, đảng viên
"đóng góp ý kiến xây dựng".
Sau khi thu thập
ý kiến và tu chính, bản Dự thảo phình ra tới 47 trang và do Thường trực
Tiểu Ban soạn thảo văn kiện Ðại hội IX, ông Hà Ðăng, Tổng biên tập Tạp chí
Cộng sản công bố ngày 3/2/2001 để lấy ý kiến tiếp. Tuy nhiên, giới thạo
tin cho rằng nội dung Dự thảo sẽ không thay đổi cho tới ngày Ðại hội.
Dưới chế độ cộng
sản, Báo cáo Chính trị giống như lá sớ Táo quân dùng thổi phồng thành tích
và bán giấc mơ. Nó không chú trọng chuyên chở các giải pháp cụ thể nhằm
thực thi quốc kế dân sinh trong một chu kỳ Ðại hội. Hai nguyên nhân sau có
thể giải thích thái độ của Hà Nội (1) Bản chất "bán giấc mơ"
đã ăn sâu bám rễ trong từng sợi thần kinh của cộng sản. Marx, Lenin, Mao,
Hồ .. chủ trương dùng bạo lực để bán giấc mơ. Hầu hết các giấc mơ đó đều
không-hiện-thực mà lại biến thành thảm họa. (2) Nói chung chung khiến cho
họ dễ lẫn tránh trách nhiệm. Không nêu số liệu cụ thể khó bị chất vấn khi
họ thất bại.
Sớ Táo quân viết
ra để đọc cho vui rồi đốt. Báo cáo Chính trị đọc cho xôm tụ rồi kết quả
thế nào cũng được. Do đó, qua bao nhiêu Nghị quyết mà Việt Nam vẫn còn là
một quốc gia nghèo đói và áp bức nhất thế giới.
Sự phình to của
Dự thảo đến từ 3 nguyên nhân (a) Nhóm chữ "đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa"
được lập đi lập lại nhiều lần khắp bản Dự thảo. (b) Nhiều đoạn trùng lặp
khiến cho bản Dự thảo dài lê thê theo phong cách "nói dai, nói dài,
nói mãi" kiểu cộng sản. (c) Chi-tiết-hóa mọi thứ khiến cho Dự Thảo
quá rườm rà.
Sau 6 tháng cổ
động cán bộ, đảng viên đóng góp, Ban Chấp hành Trung ương đã chắc lọc
những ý kiến cổ hủ nhất để đưa vào Dự thảo. Những ý kiến không hợp khẩu vị
của Hà Nội đều bị loại bỏ. Ðó là kiểu dân chủ tập trung xã hội chủ nghĩa.
Do đó, Dự thảo
lần này mang nội dung ngoan cố, đôi chỗ lúng túng vì lập luận bị gò ép
theo khuôn khỗ Marx-Lenin.
"Trong quá
trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh".
Marx-Lenin là thứ
chủ nghĩa quốc tế. Ðảng cộng sản nào cũng coi "độc lập dân tộc"
như một loại chiêu bài để tập họp lực lượng quần chúng hầu tiến tới quốc
tế chủ nghĩa.
Rập khuôn Bắc
Kinh đề cao tư tưởng Mao Trạch Ðông nên Hà Nội ra sức lồng tư tưởng Hồ Chí
Minh vào cương lĩnh chính trị. Vị trí chữ "tư tưởng" trong
câu trên rất hàm hồ. Liên hệ giữa chữ tư tưởng đứng trước và sau không thể
giải thích được.
Dự thảo nêu lên 4
nguy cơ: tụt hậu về kinh tế; chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tham nhũng,
quan liêu, diễn biến hòa bình. Nhưng, chỉ bàn về nguy cơ 1 và 3 mà lờ đi
nguy cơ 2 và 4. Tiểu ban soạn thảo đã quên hoặc đó chính là "một số
vấn đề lớn và quan trọng còn có những ý kiến khác nhau" mà Thường
trực Tiểu Ban soạn thảo văn kiện Ðại hội IX, ông Hà Ðăng, Tổng biên tập
Tạp chí Cộng sản đã tiết lộ.
Dự thảo viết
"Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt
Nam, không sao chép bất cứ một mô hình sẵn có nào".
Ô hay! Chả nhẽ,
mô hình chủ nghĩa xã hội do đảng Cộng sản Việt Nam sáng tạo mà không phải
sao chép từ Liên Xô? Chỉnh phong, Cải cách Ruộng đất, hợp-tác-hóa chẳng
phải được nhập cảng nguyên si từ Trung Cộng và Liên Xô hay sao? Và nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không phải mô hình của Ðặng Tiểu Bình?
Ðảng Cộng sản
Việt Nam ấn định thời kỳ quá độ bằng thước đo cao su bởi vì các nhà lý
luận mácxít không dám đối mặt với những số liệu cụ thể nên chẳng biết đâu
là giới hạn.
Sự lúng túng
trong lý luận của đảng Cộng sản đúng như Dự thảo nhận định "Công tác
tư tưởng, lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất
cập..thiếu sắc bén".
Ðọc hết Dự thảo,
độc giả không thấy được các giải pháp cụ thể mà toàn ngôn từ mơ hồ, huyễn
hoặc. Thiếu số liệu, dữ kiện để minh họa giải pháp nên Dự thảo chỉ mang
tính chất ước mơ.
Những ước mơ đó
có thể thành sự thật hay không?
1.Ðảng Cộng sản
kêu gọi dân chúng tham gia công cuộc "đổi mới" nhưng chính
bản thân lại vẫn như cũ. (1) Dân chúng ở đất nước sản sinh ra chủ nghĩa
Marx-Lenin đã phải vứt bỏ không thương tiếc. Họ dứt khoát quên đi thứ chủ
nghĩa vô-tích-sự để bắt tay xây dựng một xã hội mới cởi mở, hài hòa hơn.
Thứ chủ nghĩa tư bản man dại mà Karl Marx và Vladimir Lenin mô tả nhằm
sách động quần chúng đã tuyệt tự, may ra chỉ còn tìm thấy ở các nước cộng
sản. (2) Dư luận trong và ngoài nước chỉ trích gay gắt chế độ độc đảng
nhưng Hà Nội vẫn ôm cứng chiếc bình vôi. (3) Rất nhiều dân tộc trên thế
giới từ bỏ thiên đường xã hội chủ nghĩa nhưng đảng Cộng sản Việt Nam rúc
vào đường hầm đen tối, hun hút mà không chịu quay về hướng mặt trời. Vì
thế chữ "đổi mới" trở thành vô nghĩa. (4) Ðể thể hiện tính
kế thừa, Hà Nội tái bản những kế hoạch từng thất bại kể từ Ðại hội IV
(1976).
2.Ðảng Cộng sản
hô hào "đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" nhưng lại áp
dụng các kế hoạch từng bị phá sản. (1) Kế hoạch phát triển kỹ nghệ nặng,
kỹ nghệ nhẹ từng vẽ ra bức tranh kinh tế tươi sáng nhưng đã hoàn toàn sụp
đổ do thói quen duy-ý-chí của đảng viên. (2) Phong trào hợp-tác-hóa từng
được phát động rầm rộ và cưỡng bách triệt để nhưng hoàn toàn bị phá sản.
Dân chúng ngất ngư . Ðói kém là "cơ bản". (3) Phong trào thi đua,
"người tốt việc tốt" chưa bao giờ là đòn bẩy thực sự trong sản
xuất. Nó chỉ tạo ra một bộ máy áp bức dữ dội thông qua các Ban Thi đua và
Thường trực Thi đua. Bọn hung thần này hành động chẳng khác gì các Ðội
trưởng Cải cách Ruộng đất. (4) Cộng sản Việt Nam từng đoan chắc kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể sẽ dẫn đất nước vượt các quốc gia tư bản hàng
đầu và nhân dân ấm no hạnh phúc. Nhưng, chính mô hình đó đã ngự trị suốt
mấy thập niên khiến cho Việt Nam điêu tàn, nhân dân khốn cùng. (5) Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa không thành hình từ khẩu hiệu mà từ sự học hỏi,
thu thập tin tức. Nhà nước lại dùng "bức tường lửa-firewall"
hầu ngăn chặn việc học hỏi của sinh viên, sự tìm tòi trao đổi tin tức giữa
chuyên viên trong và ngoài nước thì làm sao theo kịp bước tiến của khoa
học kỹ thuật? Cách làm đó chỉ dẫn đến tình trạng tụt hậu ngày càng xa.
3.Ðảng Cộng sản
chỉ chống tham nhũng bằng nước bọt nên tình trạng ngày càng tồi tệ. (1) Từ
Ðại hội VIII (1996), tham nhũng bị coi như quốc nạn. Các biện pháp chống
tham nhũng hoàn toàn vô hiệu vì hệ thống chính trị độc đảng tất yếu phải
sản sinh ra độc quyền, độc đoán nguyồn gốc của tham nhũng, hối lộ. (2) Vụ
tố Thường trực Bộ Chính trị Phạm Thế Duyệt tham nhũng đã bị chìm xuồng.
Phó Thủ tướng Ngô Xuân Lộc bị huyền chức vì tham nhũng lại được Phan Văn
Khải tái sử dụng. Thái độ coi thường luật pháp và dư luận khiến cho tham
nhũng hối lộ trở nên bất trị. (3) Tham nhũng là bản chất của chế độ toàn
trị nên chế độ cộng sản còn thì tham nhũng cứ sinh sôi nẩy nở như giòi.
Cộng sản chuyên
nghề bán giấc mơ. Suốt bao nhiêu thập niên, dân Nam ta khốn khổ vì bị bắt
ép mua giấc mơ.
Giấc mơ không thể
nuôi sống con người. Hà cớ gì người Việt cứ phải chịu để cho cộng sản ép
mua giấc mơ huyễn hoặc?
Ðại Dương
|