Lấy Vải The Che Mắt Thánh

Vi Anh

 

Toàn bộ truyền thông VN đều do CS nắm chặt trong tay. Đó là nhân định của Đài BBC sau cuộc khảo sát sâu rộng khắp nước. Bộ Văn hoá Thông tin là cơ quan "chủ quản". Về phát thanh và phát hình, Đài Trung Ương đặt tại Hà nội. 50 đài của các tỉnh thi chỉ có nhiệm vụ tiếp vận và chỉ đuợc thêm một số tin tức địa phương do cấp ủy đảng tại chỗ xét duyệt. Đài Trung ương trực tiếp kiểm soát chặt 250 trạm trung chuyển làn sóng đặt tại nhiều nơi suốt bề dài lãnh thổ. Truyền hình cable và vệ tinh bị hạn chế tối đa. Chỉ các cơ sở Du lịch của Nhà Nước mới đuợc phép thiết trí. Dù vậy cũng chỉ đuợc mở kênh CNN và Discovery thôi. Về báo chí, tất cả thuộc Đảng và Nhà Nước, không ngoại lệ. Tuy vậy vẫn chưa "đạt yêu cầu" của Đảng. Mấy năm gần đây CS Hà nội còn ra lịnh đóng cửa 6 tờ báo vi phạm các qui định chặt chẽ về nội dung, những điều cấm kỵ ngặc nghèo. Đó chưa nói đến, tất cả các khóm phường ở thành thị, ấp xã ở nộng thôn đều có đặt trực tiếp truyền thanh tiếng nói trung ương và địa phương. Những loa này ra rả suốt giờ nghỉ ngơi, trưa, chiều. 

Người CS xem truyền thông và tuyên truyền là một. Họ không thể quan niệm được đài phát thanh, phát hình cũng như báo chí do tư nhân làm chủ mà họ gọi là dân lập. Từ khi mới chiếm được hang động  Bắc Bó giữa núi rừng Bắc Việt và Trung hoa đến khi gồm thâu trọn dãy giang sơn gấm vóc hình chữ S, CS vẫn trước sau như một, xem thông tin tuyên truyền là vũ khí chiến lược. Đơn vị đầu tiên, cha đẻ cuả Quân Đội CS bây giờ, là Trung đội Võ trang Tuyên truyền.Trung đội trưởng xưa, nay là Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn sống.

Vì vậy, công trình khảo sát của BBC nói trên không có gì mới lạ đối với người Việt, đang tỵ nạn CS ở ngoại quốc hay lâm nạn CS ở quê nhà. Ðó là sự thật hiễn nhiên, không nghi ngờ gì . Không phải chỉ xảy ra ở VNCS, mà ở tất cả các nước CS còn hay đã mất trên thế giới. Vấn đề đặt ra là liệu độc quyền truyền thông CS sẽ ra sao? Có tồn tại nỗi với Thời đại Tin học và xu thế toàn cầu hoá trên thế giới không? Có tồn tại nổi trong thời kỳ CS Hà nội bó buộc phải chuyển sanh kinh tế thị trường để tránh sự sụp đổ của chế độ không?

Nhiều dấu chỉ cho thấy CS Hà nội ngày nay không thể lấy vải the che mắt thánh đuợc. Đầu năm 2000, Tổng Cục An ninh Nhân dân truy tố 30 vụ thiết lập trạm liên lạc mặt đất qua vệ tinh VSAT và rất nhiều vụ sử dụng thiết bị tin hoc đặc biệt để ghép nối lén vào mạng điện thoại của Bưu Điện, có sự tiếp tay của nhân viên ngành này. Nội vụ xảy ra chánh yếu ở thành phố lớn như Sàigòn, Hà nội, Hải phòng và một số tỉnh như Quảng Ninh, Lạng sơn v.v... "Báo đài" của CS Hà nội báo động "các thế lực thù địch lợi dụng thông tin viễn thông để thu nhập, truyền tải thông tin, tài liệu chống đối, xâm phạm an ninh chánh trị đất nước." Những vụ án này tự nó giải thích tại sao các nhà tranh đấu bị giam lỏng tại chỗ lại có thể nói chuyện lồng lộng và đếu đặn với đồng đạo, đồng hương hải ngoại. Thậm chí nhiều khi hải ngoại còn làm trạm trung chuyển cho các nhà tranh đấu trong nước. 

Những vụ án Tổng Cục An ninh truy tố chỉ là bọt biển thỉnh thoảng thấy đuợc. Còn sóng ngầm CS Hà nội khó "phát hiện" vì nhiều mà lại vô danh và bí mật. Thứ nhứt, lớp trẻ ở nước ngoài đa số đuợc đào tạo ở Tây Âu, Bắc Mỹ, nắm vững kỹ thuật hơn Hà nội. Thứ hai, những người thuê bao điện thoại, những nhân viên ngành Bưu Điện bằng mặt nhưng không bằng lòng với CS sâu dân mọt nước, đàn áp người tu hành một cách nghiệt ngã. Còn phải kể thêm những người chuyên nghiệp hoạt động che dấu của các Toà đại sứ và lãnh sự nhưng không đồng minh với CS và hàng trăm ký giả ngoại quốc thường trú hay vãng lai.

Với những người tiêu biểu nói trên, CS không thể lấy vải the che mắt thánh được. Việc lấy, chuyển, loan tin từ VNCS ra ngoài và ngược lại dễ như trở bàn tay. Người Việt hải ngoại thừa mứa tin tức trong nước. Còn đồng bào trong nước thì chán đến tận cổ lối thông tin sặc mùi tuyên truyền cố hữu của CS. Bà con sử dụng ra dô và TV chánh yếu ở chương trình giải trí, tấu hài, tân cỗ nhạc. Thời sự thì tắt máy nghỉ , chớ không có đài khác để đổi như ở ngoại quốc. Trái lại đài phát thanh ngoại quốc lớn như BBC, VOA, RFI, Á châu Tự do, chương trình tiếng Việt và các tiếng nói của các đoàn thể đấu tranh hướng về nước nhà đuợc đặc biệt ưa chuộng. Trung ương Ủy viên Đảng CS được cấp bản tin đầy đủ bình luận, tin tức của các đài lớn ngoại quốc. Đảng viên cấp thấp hơn, không được ưu tiên bằng, người nào cũng sắm ra dô 4 băng trở lên để bắt các đài ngoại quốc. Còn nhân dân nếu Công an có đủ người đi bắt người nghe đài ngoại quốc, chắc chắn không có khám đuờng nào nhốt cho đủ. Tiến xa hơn, giới trẻ ai có điều kiện tiếp cận được với Internet, chẳng những truy cập thông tin nước ngoài mà còn phổ biến thông tin và tư tưởng người trong nước ra hải ngoại. Hiện tượng điện báo, điện thư, trang nhà trong nước phóng ra ngoại quốc rất phổ quát và gia tăng theo thời gian. CS Hà nội chỉ có thể kiểm soát điểm chớ không thể kiểm diện của các mạng nếu không muốn các máy computers của ngành nghề kinh tế khác bị ngưng trệ, tê liệt.

Chiến lược, chiến thuật, và kỹ thuât độc quyền truyền thông của CS Hà nội đã lỗi thới và thất bại trong thời đại Tin học, Trái Đất trở thành xóm nhà và các dân tộc, những người láng giếng này. Thời này CS Hà nội không thể lấy vải the che mắt thánh, là nhân dân đuợc.