ÐỪNG ÐI NƯỚC MẶN MÀ HÀ ĂN CHÂN (1)
(01/09/01 )
Phúc trình năm 2001 của Tổ chức Theo
Dõi Nhân Quyền Thế giới đã chi-tiết-hóa việc Hà Nội đàn áp các nhân vật
phản kháng chính trị như quí ông Nguyễn Thanh Giang, Hà Sĩ Phu. Trong khi
đó, ông Nguyễn Ðan Quế được gộp chung với các nhà phản kháng tôn giáo.
Nếu kể cả ông Trần Ðộ thì những nhân
vật phản kháng chính trị thuộc phe cộng sản có 3 người so với 1 của phe
không-cộng-sản.
Tháp tùng Tổng thống Bill Clinton
trong chuyến thăm Việt Nam tháng 11/2000, nữ dân biểu Loretta Sanchez đã
tiếp xúc với quí ông Trần Ðộ, Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang.
Tin tức luân lưu trên internet lại
thấy xuất hiện nhiều khuôn mặt cộng sản đang hô hào dân-chủ-hóa và nhân
quyền.
Những cán bộ cộng sản ly khai hoặc
bị khai trừ đang sống ở hải ngoại cũng lên gân cổ, kênh kiệu và muốn át
giọng mọi người.
Một số người Việt hải ngoại nghĩ
rằng tình hình phát triển thuận lợi vì càng ngày càng có nhiều người đấu
tranh cho dân chủ và nhân quyền. Người Việt hải ngoại đang ở trong tình
trạng "ông nói gà, bà nói vịt". Ðồng thời, chúng ta cũng
chẳng dè xẻn khi đem mũ chụp lung tung.
Hai phe đang cật lực biện minh cho
phương thức đấu tranh của mình.
Xin liệt kê những biện thuyết và
phản biện để chúng ta cùng nhau suy nghiệm về phương thức đấu tranh. May
ra, sẽ tìm được sự đồng thuận nếu chúng ta chịu mở toang cửa lòng, nói với
nhau những lời chân thật và cư xử bằng thái độ thẳng thắn.
Biện thuyết 1: Dùng Cộng sản chống
Cộng sản. Có sống trong chăn mới biết chăn có rận. Do đó, Cộng sản chống
Cộng sản sẽ hữu hiệu hơn. Việt Nam cần có Gorbachev, Yeltsin.
Phản biện: Chúng ta cần phải biết rõ
chống Cộng để xây cái gì. Chống Cộng Sản kiểu A để xây Cộng Sản kiểu B thì
chẳng ích quốc lợi dân tí nào cả. Do đó, xem xét nội dung thay vì chạy
theo khẩu hiệu chiêu bài chống Cộng là nguyên tắc bất biến.
Thí dụ 1: ông Trần Ðộ tố cáo chế độ
cộng sản thiếu dân chủ nhưng lại chủ trương xây dựng nền "dân chủ xã hội
chủ nghĩa". Ðể củng cố cho lập luận, ông Ðộ kêu gọi mọi người noi gương Hồ
Chí Minh. Dưới sự cai trị của họ Hồ, Việt Nam lại chẳng có dân chủ, người
Việt sống trong cảnh bần cùng, nghẹt thở. Dân Việt có muốn sống trở lại
thời kỳ sắt máu đó hay không? Hiện nay, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đang
triệt để áp dụng các phương pháp của họ Hồ. Ông Ðộ và những kẻ tung hô
tính sao? Ông Ðộ chỉ muốn sửa (chỉnh đốn) Ðảng cho tốt để tiếp tục lãnh
đạo. Qua 3 thế hệ cộng sản lãnh đạo từ Hồ Chí Minh cho tới Lê Khả Phiêu,
đất nước vẫn tụt hậu triền miên. Lấy gì làm tin?
Thí dụ 2: ông Hà Sĩ Phu phê phán chủ
nghĩa Marx nhưng "khẳng định" Hồ Chí Minh là nhà yêu nước vĩ
đại, đảng Cộng sản có công giải phóng dân tộc. Sau khi Liên Xô sụp đổ, một
số tài liệu đã minh chứng vai trò cán bộ Ðệ Tam Quốc Tế của Hồ Chí Minh.
Trong di chúc, ông Hồ cũng thú nhận đã làm trọn nhiệm vụ do QT 3 giao phó.
Kiểu "yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội" của ông Hồ đã bị hầu
hết dân Việt phản đối. Ông Hà Sĩ Phu hô hào dân chủ đa nguyên nhưng dành
phần đấu tranh chính trị cho đảng viên cộng sản. Người không-cộng-sản chỉ
có quyền tham gia. Nào khác chi kiểu dân chủ xã hội chủ nghĩa?
Khi bức màn sắt còn buông xuống, quí
ông Ðộ và Phu tin vào sự tốt đẹp của chủ nghĩa cộng sản, khả năng lãnh đạo
của đảng cộng sản Việt Nam đã thuộc vào loại cuồng tín rồi. Sau khi một số
chế độ cộng sản ở Ðông Âu và Liên Xô sụp đổ mà quí ông còn giữ vững niềm
tin thì quả thật là siêu cuồng.
Người ta đắp chăn có rận nhiều năm
vẫn ngon giấc vì người/rận đã ở trong tình trạng cộng sinh nên không ý
thức được sự khó chịu và tìm cách diệt rận. Khi kẻ khác đắp chăn có rận sẽ
bị cắn đến phát khùng bèn nhất định đem chăn trụng nước sôi hoặc mua chăn
mới.
Việt Nam không cần Gorbachev hoặc
Yeltsin. Bởi vì (1) Gorbachev muốn làm cho Liên Xô hùng cường cả mọi
phương diện thay vì chỉ mạnh về vũ lực. Nhưng, ông đã không kiểm soát được
tiến trình cải tổ. Ðảng viên cộng sản oán Gorbachev vì làm sụp đổ (ngoài ý
muốn) đế quốc Ðỏ. Dân không-cộng-sản ghét chủ trương củng cố quyền lực cho
đảng cộng sản của ông Gorbachev. Vì thế, khi Gorbachev ra tranh cử tự do
thì hai loại dân đều chê. (2) Yeltsin được sự ủng hộ của quảng đại quần
chúng năm 1991 vì tuyên bố đặt đảng cộng sản ngoài vòng pháp luật. Cả 2
nhiệm kỳ tổng thống, ông Yeltsin luôn luôn nhắc nhở dân chúng về nguy cơ
cộng sản. Tuy nhiên, lãnh tụ cộng sản không đủ khả năng để vực Cộng Hòa
Liên Bang Nga thoát khỏi tình trạng trì trệ. (3) Quí ông Nguyễn Hộ, Trần
Ðộ, Hà Sĩ Phu không ở vào địa vị lãnh đạo quyền lực như Mikhail Gorbachev
và Boris Yeltsin. Chớ nên so sánh khập khểnh. Khi ông Ðộ ở cương vị Ủy
viên Trung ương đảng, Trưởng ban Văn hóa Tư tưởng Trung ương đã không chịu
đóng vai Yeltsin thì giờ đây chỉ là kiểu hô khẩu hiệu. Chúng ta không nên
chết vì khẩu hiệu, chiêu bài.
Việt Nam đang cần Walesa hoặc Havel.
Bởi vì (1) Việt Nam cũng là chư hầu của Nga Tàu giống như các quốc gia
Ðông Âu. Hà Nội chỉ cóp nhặt nguyên văn đường lối, chủ trương, chính sách
của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh chứ không phải là kẻ xướng xuất. Mô hình đấu
tranh của Ba Lan và Tiệp Khắc gần gũi với Việt Nam hơn. (2) Quí ông Lech
Walesa và Vavlav Havel thuộc thành phần không-cộng-sản nên dễ dàng thu hút
sự ủng hộ và niềm tin công khai hay bí mật của quảng đại quần chúng. Năm
1974, chàng công nhân Lech Walesa thành lập Công đoàn Ðoàn Kết Ba Lan để
công khai chống lại sự lãnh đạo độc quyền của đảng Công Nhân Thống Nhất Ba
Lan (tức đảng Cộng Sản). Ông Walesa chỉ thương lượng đồng vai vế với Cộng
Sản khi đủ lực lượng quần chúng, không hợp tác để cải thiện chính quyền.
Vì thế, cho đến khi ngồi vào Hội nghị Bàn tròn năm 1989, Công đoàn Ðoàn
Kết Ba Lan vẫn bị chính quyền Warsava đặt ra ngoài vòng pháp luật. Khi
Công đoàn Ðoàn Kết Ba Lan đắc cử Hạ Viện, được mời giữ chức thủ tướng
trong chế độ cộng sản đang hấp hối nhưng ông Walesa từ chối. Lật đổ chế độ
cộng sản, loại đảng viên cộng sản ra khỏi vai trò lãnh đạo vẫn là chủ
trương nhất quán của ông Walesa qua các cương lĩnh tranh cử tổng thống.
Ông Havel không hợp tác với chính quyền Praha kể cả với chính phủ Cải cách
Alesandr Ducek. Nhiều lần bị tù vì "chống chế độ" nhưng Havel vẫn không
chịu bắt tay hoặc khuất phục cộng sản. (2) Các nhà đấu tranh cho dân chủ ở
Ðông Âu không chờ giấy phép của Nhà nước mới thành lập Công Ðoàn hoặc xuất
bản báo. Họ cứ sinh hoạt nghiệp đoàn công khai dù Nhà nước
không-công-nhận. Họ in "báo chui" để dân đọc mặc cho công an lùng bắt.
Việc làm sáng ngời chính nghĩa của họ đã thu hút được sự đồng tình ủng hộ
của quần chúng và sự thán phục của nhân loại trong cuộc đấu tranh giành tự
do dân chủ. Phải xin Nhà nước tức là tự đặt vào vị trí bị kiểm soát hoặc
các điều kiện hạn chế. (3) Quí ông Walesa và Havel không hề luyến tiếc quá
khứ cộng sản khi bắt tay xây dựng chế độ dân chủ cùng nền kinh tế thị
trường tự do bằng các biện pháp triệt để dù có mang lại chút ít đau đớn
cho xã hội. Nhưng sau mấy năm, Ba Lan và Tiệp Khắc đã có nền tảng dân chủ
vững chắc, nền kinh tế thị trường tự do; xã hội ổn định theo qui luật tự
nhiên, kinh tế phát triển.
Khi kết tội Hồ Chí Minh và đồng bọn
phản dân hại nước thì chúng ta không thể tán đồng những kẻ xưng tụng và
tung hô Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam.
Khi nhận định sự bất lực triền miên
của đảng viên cộng sản thì không thể tin vào đảng viên A làm hay hơn đảng
viên B. Thế hệ Hồ Chí Minh, Trường Chinh Ðặng Xuân Khu, Phạm Văn Ðồng, Võ
Nguyên Giáp.. theo Tây học, hiễu rõ chủ nghĩa tư bản nhưng vẫn đẩy Việt
Nam vào gọng kìm Marx-Lenin. Thế hệ Lê Duẫn, Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười học
theo Marx-Lenin bằng thực tế nên chỉ biết rập khuôn. Thế hệ Lê Khả Phiêu,
Trần Ðức Lương, Phan Văn Khải được đào tạo trong hệ thống xã hội chủ nghĩa
nên sự hiểu biết và tham vọng vẫn là chủ nghĩa xã hội biến tướng kiểu
Trung Cộng. Không có căn bản nào để tin vào những trí thức xã hội chủ
nghĩa. Ðiều này hoàn toàn hợp với luận lý lẫn kinh nghiệm thực tiễn.
Ðại Dương
ÐỪNG ÐI NƯỚC MẶN MÀ HÀ ĂN CHÂN (2)
(04/05/01 )
Kẻ nào không thuộc lịch sử sẽ gặp
phải sai lầm tái diễn. Ý tưởng đó ai cũng biết, nhất là những người dính
dáng đến hoạt động đấu tranh. Tiếc thay, chúng ta vô tình hay cố ý lãng
quên khiến cho lịch sử có cơ lập lại.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua
biết bao cảnh thăng trầm. Nhưng, hào kiệt chẳng bao giờ thiếu. Từ khi Thực
dân Pháp đặt chân lên xứ An Nam, bọn chúng đã phải đương đầu với biết bao
nhiêu cuộc nổi dậy của người bản xứ thuộc nhiều tầng lớp khác nhau.
Tuy nhiên, công cuộc đấu tranh giành
độc lập của dân tộc chỉ có tiếng vang trong khuôn viên nước Việt bởi hai
lý do. (1) An Nam là một dãi đất xa xôi ít ai biết tới ngoại trừ mấy tay
thực dân. Cuộc chiến chưa ở tầm mức quốc gia và quốc tế mà chỉ gói gọn
giữa dân bản xứ và bọn thực dân. (2) Người Việt Nam thời ấy chưa đặt nặng
công tác quốc tế vận. Nhiều lắm cũng chỉ quanh quẩn trong vùng Châu Á, đặc
biệt là Trung Hoa và Nhật Bản. Cụ Phan Bội Châu vận động với Ðông Kinh
(Nhật Bản) và Nam Kinh (Trung Hoa) trợ giúp Việt Nam đánh đuổi Thực dân
Pháp. Nhưng, không chú trọng đến việc tuyên truyền cho hoạt động cách mạng
đang diễn ra tại quốc nội. Hoặc thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa quốc tế
vận và hoạt động cụ thể ở Việt Nam. Cũng thế, trong cuộc Tây du, cụ Phan
Chu Trinh vận động với chính phủ Pháp thực hiện cải cách dân chủ, đánh đổ
quân chủ chuyên chế gây dân quyền. Cuộc vận động đó vẫn ít chú trọng đến
phần quảng bá hoạt động ở trong nước. Cả hai chí sĩ yêu nước họ Phan đều
không lấy quốc nội làm mặt trận chính trong công cuộc vận động tại ngoại
quốc.
Cộng sản Việt Nam được sự yểm trợ và
bảo bọc của Ðệ Tam Quốc Tế đã tung ra một cuộc vận động dư luận quốc tế
rộng rãi.
Từ chỗ uy tín chưa có gì so với các
đảng phái quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam đã được guồng máy tuyên truyền
chuyên nghiệp của Quốc Tế 3 thổi phồng thành lực lượng kháng Pháp chính
yếu tại Việt Nam.
Ðệ Tam Quốc Tế đã tập họp trí thức
thiên tả tại Pháp để làm hạt nhân thành lập Hội Việt Kiều Yêu Nước. Vào
lúc đó, thiên tả là thời trang của trí thức, nhất là tại nước Pháp. Họ chỉ
biết cộng sản qua tài liệu do Quốc Tế 3 soạn thảo nhằm tuyên truyền cho lý
tưởng cộng sản và hoạt động yêu nước của đảng viên cộng sản Việt Nam tại
quốc nội.
Nhiều thành viên trong Hội Việt Kiều
Yêu Nước đã vỡ mộng khi Cộng sản thống nhất xứ sở và tiến hành công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hối hận cũng đã muộn rồi khi cộng sản có đủ
nanh vuốt để xâu xé đất nước và dân tộc.
Chúng ta có thể tóm gọn tình hình
hoạt động của người Việt trong giai đoạn lịch sử đó: Có rất nhiều đảng, tổ
chức chính trị; giáo phái hoạt động chống Pháp bằng nhiều phương thức khác
nhau. Ðảng phái quốc gia thiếu sách lược vận động dư luận hữu hiệu. Với sự
bảo bọc và phương pháp tuyên truyền tinh vi của Ðệ Tam Quốc Tế, Cộng sản
Việt Nam dần dần che khuất hoạt động của đảng phái quốc gia để nổi bật như
đại diện cho lực lượng kháng Pháp. Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Pháp đã thủ
vai trò quan trọng trong công cuộc vận động dư luận quốc tế cũng như quốc
nội công khai hoặc âm thầm thừa nhận vai trò lãnh đạo công cuộc kháng Pháp
của đảng Cộng sản. Dư luận chỉ tỉnh mộng sau khi đảng Cộng sản thu giang
sơn về một mối và hiện nguyên hình ác quỷ. Những đảng viên cộng sản từng
hô hào độc lập dân tộc, tự do dân chủ, công bằng xã hội nay trở thành
những nhà độc tài toàn trị.
Mô hình đó đang tái diễn trong sinh
hoạt chính trị của người Việt Nam ở quốc nội cũng như hải ngoại hiện giờ.
Rất nhiều đảng phái tổ chức chính
trị hoạt động chống Cộng liên tục kể từ khi đảng Cộng sản Việt Nam xuất
hiện trong tiến trình lịch sử dân tộc. Họ chống Cộng bằng nhiều phương
thức và phương tiện khác nhau. Kẻ chủ trương dùng vũ lực, người sử dụng
phương thức bất-bạo-động. Lật đổ chế độ Cộng sản hiện hữu là mẫu số chung
cho tất cả đảng phái chính trị, tổ chức quần chúng. Thiệt hại trong cuộc
đấu tranh dai dẵng chẳng phải là ít lại càng trui rèn thêm ý chí sắt đá
của toàn dân.
Tuy nhiên, mấy năm gần đây lại xuất
hiện một vài đảng viên cộng sản cao cấp, cán bộ cách mạng đã về hưu hoặc
bị đẩy ra ngoài guồng máy quyền lực bắt đầu hô hào tranh đấu cho dân chủ,
nhân quyền. Chiêu bài, khẩu hiệu của họ cũng rỗn rãng giống như những thứ
mà Hồ Chí Minh và đồng bọn đã dùng. Ðược một số người Việt hải ngoại tung
hô khiến cho tên tuổi những nhà "phản kháng" trở nên quen
thuộc với dư luận.
Chúng ta chỉ chú trọng đến khẩu hiệu
chiêu bài giương lên mà quên bẵng chủ trương nhất quán của họ: đảng Cộng
sản tiếp tục lãnh đạo, đảng viên cộng sản và cán bộ cách mạng giữ vai trò
tiền phong trong công cuộc đấu tranh (cũng giống như "khẳng định"
của đảng Cộng sản về vai trò tiền phong của đảng cộng sản trong công cuộc
giải phóng dân tộc).
Chiêu bài độc lập dân tộc, tự do dân
chủ được Hồ Chí Minh và đồng bọn giương cao trước dư luận nhưng cương lĩnh
chính trị của đảng Cộng sản vẫn là xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lỗi do chúng
ta thiếu tầm nhìn bao quát nên bị khẩu hiệu chiêu bài che lấp chủ trương
thực sự của cộng sản. Bao nhiêu người biết được mưu đồ của cộng sản vào
giữa thế kỷ 20? Hay ta chỉ biết khi lá bài đã lật ngửa báo hiệu tàn cuộc.
Hồ Chí Minh từng tuyên bố giải tán
đảng Cộng sản hầu đánh lừa dư luận. Nhưng, nhất quyết không để mất vai trò
lãnh đạo của đảng viên Cộng sản như Hồ, Chinh, Ðồng, Giáp.. Nắm quyền
trong tay, họ có thể xoay chuyển lịch sử một cách dễ dàng.
Thành phần "phản kháng"
xuất thân từ đảng Cộng sản đang hô hào bỏ con đường xã hội chủ nghĩa nhưng
vẫn giữ sự lãnh đạo lại cho đảng Cộng sản và vai trò tiền phong cho cán bộ
cách mạng (tức cộng sản). Có gì bảo đảm rằng họ không noi gương Hồ Chí
Minh, nhất là lúc nào thành phần "phản kháng" cũng không
ngớt lời ca tụng và kêu gọi học hỏi theo gương họ Hồ?
Kinh nghiệm thương đau còn quá mới
mẽ, sao lại nỡ quên?
Ðại Dương
|