CUỘC TRANH ÐẤU ÐÁNG TỐN PHÍ
Hà Nhân
Từ năm ngoái đến nay, cuộc tranh đấu
chống lại âm mưu vẽ ra một hình ảnh chắc hẳn là không tốt đẹp về người tị
nạn Việt Nam bằng ngòi bút của hai viên chức ngành văn hóa của CSVN của
Trung Tâm William Joiner (William Joiner Center, WJC) thuộc đại học
Massachusetts ở Boston vẫn chưa ngã ngũ.
Các phương tiện truyền thông ở khắp
nơi có người Việt sinh sống đã loan tải khá đầy đủ về vụ tranh đấu nói
trên. Ở đây chỉ xin lược thuật lại diễn tiến câu chuyện để độc giả tiện
theo dõi bài viết này.
Ðầu năm 2000, WJC được tổ chức
Rockefeller Foundation tài trợ, đã mở một chương trình nghiên cứu trong 4
năm nhằm xác định đặc tính và nơi sinh sống của khối người Việt lưu vong.
Giám Ðốc WJC là Tiến Sĩ Kevin Bowen. Người đứng ra điều hợp việc tìm người
tham gia nghiên cứu là giáo sư Nguyễn Bá Chung, mà theo dư luận cộng đồng
người Việt ở Massachusetts thì ông này là một người thân CSVN, từng làm
nhiều việc hỗ trợ cho đảng CSVN và chính quyền Hà Nội của họ.
Ðể tiến hành việc nghiên cứu cho năm
đầu tiên, WJC đã mời 4 người tham dự nghiên cứu. Ngoài hai nữ nghiên cứu
gia là Michelle Janette, giáo sư đại học, Caroline Kiều Linh, tốt nghiệp
cao học (gốc Việt trưởng thành ở Mỹ), còn có hai nhân vật đang làm việc
cho chính quyền CSVN được WJC gọi là học giả. Ðó là các ông Hoàng Ngọc
Hiến và Nguyễn Huệ Chi. Hai ông này là cán bộ trung cấp ngành văn hóa.
Ðiều đó có nghĩa là hai nhân vật này phải được chế độ CSVN xem giò xem
cẳng về lập trường tư tưởng và hạnh kiểm chính trị mới được trao cho nhiệm
vụ giảng dậy khoa văn.
Không một người nào có chút lý trí
mà lại tin rằng những cán bộ đang làm việc cho CSVN sẽ viết những bài
nghiên cứu trung thực về những người tị nạn vì thù nghịch với chế độ CSVN.
Chắc chắn không thể có. Trong khi ấy, WJC biện bạch quanh co rằng hai nhân
vật này là những nhà học giả không làm chính trị và có tinh thần trung
thực. Nhưng những lý lẽ mà WJC đưa ra chỉ đánh lừa được người trí thức
sa-lông Mỹ, mà không thể lừa nổi một ai từng sống và lớn lên ở Việt Nam
dưới chế độ Cộng Sản.
Gian ý của WJC lộ rõ ở chỗ thông cáo
tuyển ứng viên cho chương trình nói trên không được phổ biến ở những vùng
nhiều người Việt định cư ngoài tiểu bang Massachusetts và chỉ loan báo
trong thời hạn 28 ngày trước khi khóa sổ. Trong khi ấy, hai người ở Hà Nội
hẳn phải được chuẩn bị để hoàn tất nhiều thứ hồ sơ từ lâu, ít nhất cũng
vài tháng trước hạn nói trên.
Các hội đoàn, tổ chức, cá nhân có
tên tuổi trong cộng đồng người Việt ở nhiều nơi đã gửi thư bầy tỏ sự phẫn
nộ và phản kháng hành vi không ngay thẳng của WJC. Riêng tại
Massachusetts, cộng đồng người Việt đã biểu tình chống lại việc làm của
WJC. Hiện nay cộng đồng Việt Nam ở Massachusetts đang dự định sẽ phản
kháng mạnh hơn nữa. Nhưng trung tâm William Joiner vẫn ngoan cố tiếp tục
duy trì hai người của Hà Nội trong chương trình.
Người nêu ý kiến phản kháng đầu tiên
đối với vụ này là ông Nguyễn Hữu Luyện, sinh viên Cao Học tại Ðại Học
Massachusetts. Ông Luyện là cựu sĩ quan QLVNCH, khóa 4 phụ trừ bị. Năm
1967, ông Luyện phục vụ đơn vị Biệt Kích, chỉ huy một toán nhẩy dù xuống
hoạt động ở một vùng phía bắc Vĩ Tuyến 17 và bị bắt giam 22 năm sau mới
được phóng thích. Ông Luyện trước sau giữ được khí tiết của người sĩ quan,
không chịu khuất phục, nên bị địch biệt giam 11 năm.
Ông Luyện khởi xướng vụ kiện tập thể
chống WJC, viện lẽ trung tâm này đã không đối xử công bình và thẳng thắn
với những người có thể đã ứng tuyển vào chương trình nghiên cứu nếu WJC
thông báo rộng rãi khắp những nơi có đông người Việt định cư và trên những
báo chí của người Việt lưu vong phát hành khắp nơi trên thế giới.
Vì quyền hạn tự trị rộng lớn của đại
học tại Mỹ, WJC có thể có các chính sách giáo huấn theo các quy định
riêng. Phe ta không thể kiện WJC về những vấn đề thuộc thẩm quyền tự trị
của một cơ sở giáo dục. Nhưng những hành vi cố ý phân biệt đối xử, manh
tâm dành thuận lợi cho một loại người này để loại trước những loại người
khác bằng những mưu mô lươn lẹo thì những người bị thiệt hại vì không được
ứng tuyển có quyền khiếu tố tập thể (class action) trước tòa án.
Hiện nay đã có 12 người đứng tên
khiếu tố tập thể trong vụ mang số 0013252 ở Massachusetts, đứng đầu danh
sách là ông Bùi Diễm cựu Ðại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ, và nhiều nhà nghiên cứu
tên tuổi khác trong đó có các luật sư Nguyễn Tường Bá, luật sư Nguyễn Văn
Chức, ký giả lão thành Nguyễn Tú, Nguyễn Ðạt Thịnh, cây viết Phan Nhật
Nam, Trần Minh Xuân, Lê Thành Quang, tiến sĩ Lê Phước Sang, tiến sĩ Nguyễn
Thanh Liêm, tiến sĩ Vương Như Ý. Vụ kiện này có những đặc điểm sau đây:
- Cơ may thắng hay thua kiện là
50/50.
- Phí tổn cho luật sư được ước tính
khoảng 100.000 MK.
Mục tiêu chính của việc khiếu tố là
dù được hay thua kiện, vụ án này sẽ thành một án lệ tiêu biểu cho một loại
tranh chấp về hành vi dùng chiêu bài văn hóa, nghiên cứu để mưu cầu thành
đạt mục tiêu chính trị sai trái và bất công, bất lương. Án lệ này sẽ được
lưu giữ trong sách vở, văn khố về pháp lý. Ðồng thời khi những tài liệu
nghiên cứu nói trên được phổ biến, chắc chắn vấn đề WJC bị khiếu tố liên
quan đến tính trung thực của tài liệu sẽ được đi kèm theo tài liệu, gây
nghi ngờ về tính chất xác thực đứng đắn của tài liệu.
Nếu tốn 100 ngàn MK để làm được một
việc như vậy thì đó là một giá phải trả không lấy gì làm đắt. Hậu quả do
hành vi xuyên tạc lịch sử của WJC và tác động sẽ dành được trong vụ kiện
này có thể quan trọng ngang hoặc hơn hẳn vụ Trần Văn Trường ở Nam
California, và còn quan trọng hơn nữa về mặt học thuật.
Tháng vừa qua, WJC đã tuyển thêm một
số nhà nghiên cứu trong số này có nhân vật đáng chú ý là Giáo Sư Nguyễn
Văn Trung, của Trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn trước 30/4/75. Ông Trung
xưa kia có lập trường phản chiến và thỏa hiệp với phe CSVN. Sau 30/4/75
ông hợp tác với chế độ CSVN ở một mức độ nào đó và được sự nâng đỡ của
lãnh tụ CSVN Nguyễn Văn Linh. Nhưng thời gian gần đây từ 1993, ông định cư
tại Gia Nã Ðại và thay đổi phần nào thái độ.
Ông được WJC tiếp xúc và mời tham dự
cuộc nghiên cứu phần kế tiếp cho năm 2001. WJC ra quyết định tuyển dụng
Trung. Nhưng ông Trung đã rút tên không tham dự. Trong thơ gửi cộng đồng
Việt Nam ở Massachusetts và thơ gửi WJC, ông Trung hoàn toàn ủng hộ quan
điểm chống việc WJC để hai nhân vật đang phục vụ cho chế độ CSVN, không hề
biết gì về Miền Nam và cộng đồng Việt Nam ở Bắc Mỹ, làm công việc nghiên
cứu như nói trên.
Ông Trung nhắn nhủ WJC rằng những
đảng viên người Miền Bắc mà ông quen biết và ngay cả những người Miền Bắc
chống chế độ CSVN quyết liệt đều không hiểu rõ Miền Nam vì thiên kiến và
vì không có kinh nghiệm sống ở Miền Nam.
Ông Trung xác nhận việc làm của WJC
là xúc phạm cộng đồng người Việt từ Miền Nam Việt Nam và hoàn toàn thông
cảm với lý do khiến cộng đồng chống đối hành vi của WJC. Ông nói chính ông
cũng thắc mắc về việc mời hai ông Hiến và Chi, không phải vì họ là Cộng
Sản mà vì họ không đủ khả năng hiểu biết những vấn đề của Miền Nam ở trong
nước cũng như ở ngoại quốc.
Ông Trung kịch liệt chê trách cách
thức làm ăn thiên vị, trái với tinh thần đại học ở Hoa Kỳ, nhất là việc
tuyển dụng ông và những người khác vào đợt nghiên cứu thứ nhì chỉ nhằm xoa
dịu những bất mãn của cộng đồng người Việt lưu vong.
Tháng vừa qua, WJC loan báo đã tuyển
thêm một số ứng viên cho chương trình năm 2002 trong đó có những người
nguyên thuộc Miền Nam Việt Nam lưu vong như cựu tù nhân chính trị Tạ Chí
Ðại Trường, Ðặng Tiến, Ðỗ Quyên, Nguyễn Văn Trung... để tiếp tục chương
trình 2000-01 sẽ chấm dứt tháng 9/2001. Ông Trung cho rằng WJC muốn dùng
ông làm bung xung cho hành vi bất chính của họ.
Về mặt dư luận nói chung, việc phản
kháng của cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại có lý lẽ vững vàng và hợp lý. Vụ
kiện này có tầm quan trọng đáng kể. Tuy không sôi nổi và căng thẳng như vụ
Trần Văn Trường, nhưng có tác dụng sâu xa và lâu dài hơn.
Vì những lý do ấy, vụ kiện WJC xứng
đáng được tất cả mọi người Việt Nam yêu nước tích cực ủng hộ. Số chi phí
dự liệu 100 ngàn MK tuy lớn đối với một cá nhân, nhưng không lớn đối với
cộng đồng Việt Nam lưu vong. Kết quả dự liệu rất đáng để được mua với số
tiền nói trên. Vả lại ngân khoản 100 ngàn MK mới chỉ bằng 1/3 tiền ủng hộ
thu được trong vụ Trần Văn Trường.
Hà Nhân
|