CHÍNH SÁCH NGƯỜI DÂN
TỘC
Cao Nguyên Trung
phần sống trong tình trạng căng thẳng hai tuần qua vì một cuộc nổi dậy quy
mô của sắc tộc thiểu số trong hai tỉnh Gia Lai và Daklak. Các hãng thông
tấn quốc tế đều ghi nhận đây là một cuộc nổi loạn tai hại nhất kể từ ngày
chế độ cộng sản cai trị Việt Nam, khiến quân đội và công an võ trang chống
bạo loạn đã được huy động, ngày đêm canh phòng tuần tiễu. Tình thế khác
hẳn cuộc nổi loạn của nông dân Thái Bình mấy năm trước.
Tại sao những dân
tộc miền núi sống rải rác trong rừng gần gụi với thiên nhiên ở xa thành
phố, lại có khả năng tập hợp mau lẹ thành những cuộc biểu tình ngay tại
thị xã Pleiku rồi bảo nhau di chuyển dài hàng chục cây số về tỉnh Daklak,
đồng thời phối hợp hành động để cắt đứt các đường lộ cách nhau rất xa, làm
tắc nghẽn giao thông? Ðó là vì họ đã có kỹ thuật truyền tin hiện đại: họ
sử dụng điện thoại di động. Người dân miền núi đã tiến bộ mau lẹ hơn người
dân miền suôi, bởi vì họ đã biết đoàn kết và thừa hưởng những truyền thống
đấu tranh của tổ chức FULRO thời chiến, được hiện đại hóa bằng cuộc cách
mạng kỹ thuật thông tin. Người Thượng định cư ở Mỹ đã có một website chung
của họ trên Internet hoạt động rất hiệu quả.
Cao Nguyên Trung
Phần có nhiều dân thiểu số cư ngụ nhưng trong hai tỉnh có biến loạn, nhiều
nhất là sắc tộc Jarai, Ede và Bahnar tổng cộng hơn 600,000 người. Các chế
độ cai trị Việt Nam từ thời vua chúa xa xưa cho đến cận đại như triều đình
nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc rồi đến nền Ðệ Nhất và Ðệ Nhị Cộng Hòa ỏ Miền
Nam, đều chú trọng chính sách ưu đãi người dân miền Thượng. Vua Bảo Ðại
sau khi trở về nước làm Quốc trưởng năm 1948 đã lập Tây Nguyên Trung phần
thành Hoàng triều Cương thổ, một phần đất dành riêng cho người Thượng để
tôn trong nền văn hóa, phong tục tập quán của họ. Các chế độ Cộng Hòa kế
tiếp ở miền Nam cũng đi theo chính sách đó.
Dân miền Thượng ở
miền Trung cũng như hầu hết các dân tộc thiểu số ở miền núi Bắc và Tây Bắc
miền Bắc đều là những người hiền lương chất phác, họ sống gần gụi với
thiên nhiên nên không hiểm độc, họ biết phục thiện. Họ trung hậu không
phản trắc, nhưng họ rất thông minh. Bởi vậy vấn đề lại khác nếu kẻ nào
lường gạt họ. Trong thời người Pháp cai trị, nhiều người Thượng nói tiếng
Pháp rành hơn tiếng Việt. Những người Thượng trí thức đã từng du học ở
Pháp lập ra một phong trào gọi là FULRO, do những chữ tắt của cụm từ tiếng
Pháp: "Front Uni pour la Libération des Races Opprimées" (Mặt
trận đoàn kết Giải phóng các Chủng tộc bị áp bức). FULRO ra đời sau cuộc
Ðệ nhị Thế chiến, khi có phong trào tranh đấu chống thực dân của các dân
tộc bị trị trên toàn thế giới.
Những người Cộng
sản học sách lược của Lenin đã có thừa kinh nghiệm về vấn đề dân tộc thiểu
số. Ngay từ lúc đầu cuộc chiến tranh chống Pháp, đảng Cộng sản Việt Nam đã
lợi dụng phong trào FULRO. Vậy tại sao FULRO lại chống Cộng sản? Nếu người
dân Thượng đã có kinh nghiệm lâu dài về chế độ cai trị của người Pháp, nay
chỉ trong thời gian rất ngắn họ đã nhìn thấy dã tâm của những người Cộng
sản. Hơn nữa văn hóa mác-xít ngược hẳn với truyền thống văn hóa dân tộc
Thượng. Vì thế người Thượng tin đạo Chúa, đạo Tin Lành chớ không tin đạo
Mác-Lê. Sau khi miền Nam Việt Nam bị cộng sản xâm chiếm, những người dân
Thượng theo phong trào FULRO đều bị bắt, tù đầy chung với quân cán chính
của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng du kích FULRO ẩn náu ở những vùng rừng núi ở
biên giới Việt-Miên vẫn tiếp tục hoạt động tấn công Gia Lai-Kontum cho đến
đầu thập niên 80. Chính sách của chế độ Cộng Sản nhằm tiêu diệt FULRO,
nhưng lại tỏ ra khôn khéo chiều đãi người dân Thượng để tạo cơ hội cho cán
bộ cơ sở vào nằm vùng tuyên truyền với ý đồ lâu dần chuyển hóa rồi xóa
luôn phong tục tập quán của người Thượng. Họ còn trù dập những người
Thượng theo đạo Tin Lành bị nghi là tiếp tay cho FULRO. Ðó là lỗi lầm thứ
nhất của những người cộng sản.
Lỗi lầm thứ hai
là chế độ xua người Kinh ào ạt đi "kinh tế mới" lên Cao
nguyên. Sự thật việc người Kinh định cư ở Cao Nguyên không phải là vấn đề.
Người miền xuôi đông hơn, sinh đẻ mau lẹ hơn nên từ thời xưa vẫn có lệ lên
lập nghiệp khai khẩn các vùng núi hoang vu. Người miền núi hiền hòa chất
phác, người miền suôi khôn ngoan lương thiện, hai dân tộc Kinh và Thượng
vẫn sống hòa thuận từ nhiều thế kỷ qua, không hề có xung đột chủng tộc lớn
lao. Thế nhưng khi chế độ Cộng sản xua dân miền xuôi từng đoàn người kéo
lên miền núi để chiếm đất, những căng thẳng đã bắt đầu. Tình trạng này lớn
dần theo tỷ lệ bành trướng của nạn cán bộ tham ô nhũng lạm do chế độ cộng
sản đem tới Cao Nguyên.
Rồi đến lỗi lầm
sau chót và nghiêm trọng nhất làm mất thế quân bình do tiền nhân để lại.
Nó xuất phát từ lòng tham của các công ty quốc doanh nhà nước mở thêm các
đồn điền trồng cà-phê. Gia Lai và Daklak là hai tỉnh Cao nguyên có đất đai
và khí hậu thích hợp với cây cà-phê, nhất là loại robusta rất ăn khách
trên thị trường quốc tế. Thời xưa thực dân Pháp đã mở đồn điền trồng
cà-phê ở vùng này. Chế độ Cộng sản cũng theo nghề của người Pháp, chỉ hiềm
là họ cũng bắt chước luôn cả thủ đoạn thực dân, và còn kỹ hơn cả Pháp.
Xuất cảng cà-phê là một trong những nguồn thu ngoại tệ lớn nhất của Việt
Nam. Năm ngoái Hà Nội thu đến 485 triệu đô-la xuất cảng cà-phê. Quá ham
mối lợi này, các công ty nhà nước mở rộng tối đa vùng trồng cà-phê, lấn
đất đuổi dân khiến người Thượng lâm cảnh nghèo khổ thiếu ăn. Giá cà-phê
trên thị trường quốc tế xuống cũng vì Việt Nam tống ra quá nhiều cà-phê.
Nhưng hàng mất giá, Việt Nam lại càng phải trồng thêm cà phê để "bù
lỗ". Dân Thượng càng khổ. Tây Nguyên vẫn chưa yên.
Sơn Ðiền Nguyễn Viết Khánh
|