CÁCH TRỊ BỊNH  

Hà Nhân  

Người ta thường phân biệt “cách cho” với “của cho.” Vậy cũng có thể phân biệt “thuốc chữa bệnh”“cách chữa bệnh.” Chủ đề của bài này hôm nay nói về một thứ bệnh xã hội ở Việt Nam ngày nay và thầy thuốc là đảng CSVN, nguyên là một ông lang vườn, nhưng lại có tham vọng chữa mọi thứ bệnh nan y. Thầy thuốc dốt nát, bệnh nhân mất khả năng miễn nhiễm, bệnh kinh niên đã quen thuốc nên thuốc không còn hiệu lực, nên bệnh ngày càng lây nhiễm rộng lớn hơn.  

Bệnh xã hội có nhiều thứ, nhưng cần nói trước nhất trong số này là tệ nạn mãi dâm. Tệ nạn này có ở mọi xã hội, cả những xã hội văn minh nhất cũng như lạc hậu nhất, và đã xuất hiện ngay từ thời thượng cổ. Bị coi là một trong những nghề “không vốn” tuy không làm ai chết hay bị thương nhưng nó gây ra những hậu quả xã hội khác và góp phần nào vào việc làm cho đạo đức suy đồi. Vì vậy hầu hết các nước đều không hợp pháp hóa nghề mãi dâm trừ một vài nơi ở vào tình trạng xã hội thuận lợi nên chính quyền không ngăn cấm hoặc cấp phép hành nghề cho thuê thể xác này.  

Dưới chế độ CSVN, các hành động tình dục được tự do không bị giới hạn và gần như được buông thả nhưng nghề mãi dâm bị cấm, ngoại trừ những ổ gái điếm “quốc doanh” phục vụ số chuyên gia các nước Cộng Sản như Cuba và Liên Xô. Nhưng trên thực tế nạn mãi dâm chỉ giảm sút và thay đổi hình thức tùy theo từng thời kỳ, chứ không bị xóa bỏ hoàn toàn. Trong thời kỳ cực thịnh của chế độ CSVN 1957-1964, tại thành thị Bắc Việt vần đầy rẫy gái điếm hoạt động “cá thể” không có trụ sở riêng treo đèn đỏ như thời Pháp Thuộc, hoặc không có tú bà và ma cô như ở Miền Nam.  

Giá bình dân đồng hạng hồi ấy là 5 đồng một lần đi khách (bằng giá 12,5 kg gạo, hay một tháng tiền tiêu vặt của bộ đội). Nếu trả bằng tem lương thực hay phiếu gạo, phiếu bách hóa thì tùy theo thương lượng. Các cô còn trẻ có nhan sắc được tính thêm. Năm 1979, có một số tù chính trị bị giam ở Nghệ An được dắt mối mua dâm của một số nữ công nhân từng phục vụ cho các đồng chí Cuba sang làm công tác xây dựng nhà cửa ở Thị Xã Vinh cũng còn giữ giá 5 đồng.   

Ðến thời kỳ sau khi có chính sách đổi mới năm 1986 nạn mãi dâm mở phạm vi hoạt động rất rộng. Nhiều khách sạn quốc doanh kín đáo mở thêm công cuộc kinh doanh tình dục. Tiếp theo là những nhà tắm hơi có bán dâm, các điểm tắm ôm, cơm ôm, các quán bia ôm, cà phê ôm, karaoke ôm, karaoke “không lời,” làm đầu dây liên lạc đón khách làng chơi. Không có thống kê nhưng quan sát bề ngoài đường phố đầy rẫy những điểm giải trí như nói trên, người ta ước đoán nghề mãi dâm ngày nay ở khắp Việt Nam nhan nhản nhiều gấp vài chục lần so với thời kỳ 1965-72 ở Miền Nam khi còn hàng trăm ngàn binh sĩ Mỹ hiện diện.  

Hầu hết những cơ sở này do tư nhân đứng tên và do một cơ quan chính quyền CSVN hậu thuẫn ngầm ăn chia kiểu 4/6. Chủ nhân đứng tên ăn 6/10 và chịu ở tù khi chẳng may bị bắt. Ấy là chưa kể đến số gái bán dâm lưu động đón khách trên những quãng đường vắng và thuận tiện nhất là ở giữa ranh giới quận, phường và thường do bọn công an phường và quận huyện che chở.  

Ðảng và chính quyền CSVN đã nhiều lần lên tiếng tuyên bố bài trừ tệ nạn mãi dâm, nhưng nạn mãi dâm ngày càng tăng nhanh gấp nhiều lần nhịp tăng dân số. Tuần qua, một hội nghị toàn quốc chống tệ nạn mãi dâm hội họp tại Hà Nội bàn thảo các công tác chống nạn mãi dâm theo tinh thần nghị quyết đại hội đảng lần thứ 9. Quốc hội CSVN và các cấp chính quyền liên hệ lại tuyên bố bài trừ nạn mãi dâm. Các giới chức chính quyền trung ương nhìn nhận rằng số tiền một gái điếm kiếm được một ngày bằng 10 tháng lương một công nhân.  

Hội nghị nói trên bế mạc hôm 6/7/2001 công nhận việc phòng chống mãi dâm chưa có hiệu quả và đưa ra 4 nguyên nhân: chưa có chiến lược cụ thể để đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục và chưa tạo được phong trào quần chúng; buông lỏng quản lý nhà nước trong việc kiểm soát hộ khẩu và cư trú, các cơ quan thiếu phối hợp; việc phòng chống còn mang tính hình thức; pháp lý chưa rõ ràng tạo khe hở cho hối lộ, làm ngơ.  

Biện pháp tích cực cụ thể theo ông Phạm Gia Khiêm, phó thủ tướng CSVN nói trong hội nghị, là áp dụng kỷ luật đối với viên chức, cán bộ, đảng viên bị bắt gìữ vì tội mua dâm cũng như xử lý mạnh tay và công khai đối với khách chơi phạm luật cấm mãi dâm. Chế độ CSVN đề ra mục tiêu xóa bỏ tệ nạn mãi dâm trước năm 2005. Ðồng thời tuyên bố nói trên còn cho biết sẽ trừng trị cán bộ đảng và chính quyền nào đứng sau hay làm đầu nậu bao che cho những tổ chức buôn dâm.  

Chắc hẳn ai cũng nghĩ rằng chế độ CSVN khó có thể thành công trong việc tiêu diệt một thứ tệ nạn xã hội tồn tại từ hàng ngàn năm qua. Người đàn bà làm nghề mãi dâm đa số vì nghèo đói mà không muốn lao động vất vả, và hầu hết có điều kiện tình dục và thể xác không bình thường. Một lệnh cấm của chính phủ, một thông cáo của cảnh sát không đủ để làm cho tệ nạn mãi dâm chấm dứt.  

Là một căn bệnh tâm lý xã hội, các chuyên gia cho rằng không thể nào bài trừ hoàn toàn tệ nạn mãi dâm mà chỉ có thể ngăn cấm đến một mức độ nào đó. Ngày nào còn đàn ông, đàn bà, nghèo đói và những loại tâm bệnh về tình dục thì nghề cho thuê xác thịt vẫn còn lay lứt. Phương tiện phạm tội ai cũng có, nên khác với các hình tội khác, không thể tịch thu phương tiện vi luật và tang vật và không thể chỉ cấm tàng trữ và sử dụng phương tiện phạm tội mà ngăn ngừa được tệ nạn buôn dâm như trường hợp bài trừ ma túy. Ngoài ra nhân viên công lực không dễ gì buộc tội một nghi can bằng phương pháp giản dị ít tốn tiền và công sức nếu không bắt quả tang các nghi can đang trao đổi món hàng bị cấm buôn bán.  

Chế độ CSVN hiện không có đủ khả năng làm việc tận diệt nạn mãi dâm như họ tuyên bố. Từ hơn 10 năm qua, đội ngũ công an ngày càng lỏng lẻo về mặt tinh thần. Thời kỳ công an được ưu đãi nhất nước (lính công an bằng quan bộ đội) đã chấm dứt. Lương bổng thấp mà giá sinh hoạt cao vọt, họ phải làm hoặc không làm một số việc trong phạm vi bổn phận. Do đó kỷ luật và trật tự xã hội lỏng lẻo.  

Nỗ lực chính của công an dành cho việc bảo vệ an ninh chính trị để ngăn chận dân chúng nổi loạn hay xuống đường chống đối. Tệ nạn xã hội không được chú trọng ưu tiên. Trung ương đảng CSVN không thể có đủ ngân sách và phương tiện máy móc cùng nhân sự để làm công việc chữa căn bệnh trầm trọng này. Một guồng máy công an như hiện tại không thể trị nổi nạn mãi dâm.  

CSVN đã thả lỏng cho bệnh dai dẳng trong ba bốn chục năm nay. Mãi đến nay họ mới nhận ra nguy cơ do bệnh gây ra và mới thấy rằng dưới chính quyền VNCH mà họ thường thóa mạ là đầy đĩ điếm, nạn mãi dâm lúc lên tới mức tối đa cũng chưa bằng phần nhỏ của tệ nạn buôn dâm hiện nay.  

Từ thập niên 1980, Hà Nội đã nhiều lần ra nghị định cấm chỉ công an không được nhậu nhẹt say sưa với dân chúng trong phạm vi trị an của mình. Nhưng rồi cũng chỉ là cơn gió lốc ngắn ngủi, lúc đầu thì mạnh vù vù bay mái trốc nóc, nhưng rút cuộc sẽ yếu đần rồi tắt hẳn. Một số công an phát biểu thẳng thừng rằng làm công an địa phương ít lương nhưng có cái thú là ăn nhậu, không cho ăn nhậu thì đi công an làm gì? 

Tương tự, mua dâm là một ngón ăn chơi của những kẻ có tiền bạc rủng rỉnh nhất là lớp tư sản đỏ mới nổi. Họ thường là những kẻ làm giầu nhờ chức quyền ưu đãi hay có móc nối với gốc lớn, sẵn sàng bỏ tiền mua vui dù giá cả có tăng cao đến mấy đi nữa. Chơi bời gái hạng sang là một cách chứng tỏ mình là tay chơi, sành điệu. Còn có nhu cầu thì còn có dịch vụ cung cấp và ngược lại.  

Còn như tuyên bố trừng trị những viên chức cán bộ bao che cho các ổ nhện cũng khó mà thi hành. Làm sao có thể xác định bằng cớ chứng tỏ một viên chức hay cán bộ có dính dáng vào một tổ chức buôn dâm, vì những kẻ ăn vụng thời nay thiếu gì cách chùi sạch mép. Ðặc biệt là những ổ điếm hạng 4 sao, 5 sao do các cơ quan kinh tài của đảng và chính quyền cấp quận huyện và tỉnh hậu thuẫn. Chưa kể đến số nữ công nhân ở một số công trường lớn hành nghề mãi dâm bán thời gian, “nghiệp dư,” nhất là khi hai ba tháng chưa được trả lương.  

Vả lại, nguyên nhân nạn mãi dâm tiềm ẩn sâu xa trong tâm-sinh-lý loài người và trong sinh hoạt kinh tế xã hội, nên chỉ có thể giải quyết bằng những biện pháp lâu dài có tác dụng đạo đức là chính. Hơn 40 năm nay, CSVN đã tạo ra một đời sống xã hội văn hóa rất kém cỏi về đạo đức xã hội và gia đình để phục vụ mục tiêu thống trị đất nước và thực hiện chế độ Cộng Sản. Chính vì thế mà lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhiều tệ nạn mới phát sinh hoặc xưa kia đã có nhưng nay lan rộng và gia tăng khủng khiếp như: nạn cha mẹ bán con gái cho các ổ mãi dâm ở Việt Nam, Cam Bốt và Thái Lan, buôn phụ nữ bán sang Hoa Lục làm vợ và làm đĩ, làm người ở...  

Không thể trong vài chục năm mà lọc bỏ hết tác dụng độc địa của chủ nghĩa Marx-Lenin trong khi nền kinh tế thị trường nửa vời cố níu kéo cái mã Chủ Nghĩa Xã Hội còn tạo thêm thuận lợi cho nghề mãi dâm. Tin các báo trong nước có nói đến cả nghề “đĩ đực” hiện khá thịnh hành và có cơ phát triển mạnh.  

Cùng với việc tuyên bố bài trừ tệ nạn mãi dâm, nhà cầm quyền CSVN còn ra lệnh buộc các quán rượu, karaoke, khiêu vũ, ca nhạc không được mở cửa quá 12 giờ đêm. Dư luận quần chúng thanh thiếu niên và báo chí của nhà nước cũng đồng loạt phản đối. Những cơ sở giải trí này sống nhờ khách chơi khuya. Lệnh cấm chơi khuya chắc chắn làm cho các quán này lỗ to, nghĩa là nguồn thuế chính thức cũng như nguồn hụi sống hụi chết nộp cho chính quyền địa phương sẽ bị thất thu nghiêm trọng. Các lãnh chúa địa phương dễ gì chịu thua.  

Nói tóm lại, những biện pháp phòng chống mãi dâm của chế độ CSVN chỉ có tính chất giáo điều nặng về tuyên truyền. Trên thực tế ngày nay CSVN chẳng còn giáo dục được ai về đạo đức tuy rằng giáo dục là phương pháp hữu hiệu nhất về lâu về dài đối với việc giảm thiểu tệ nạn xã hội. Biện pháp trừng phạt để răn đe còn rất ít hiệu quả trong xã hội Việt Nam dưới chế độ CSVN hiện nay khi mà bốn chục án tử hình vẫn không ngăn chận nổi phong trào buôn bán ma túy.  

Ðó là hậu quả tất nhiên khi con người nghèo khó đông đảo trong xã hội đã chai lì với thiếu ăn, tù tội, chém giết, hành hạ. Chính sách cai trị bằng bạo lực và trí trá của CSVN đã tạo ra những con người XHCN đã quá quen đau khổ nên không còn biết sợ. Thật là một tai họa cho tương lai nước ta. 

Hà Nhân