Bảo Mật Cho Cuộc Chiến
Trong thập niên 80, vụ án "
Biệt kích Văn hóa trong lòng địch" ở Sàigòn khiến hàng chục nhà
văn nghệ sĩ còn bị kẹt trong nước, cụ thể như Hoàng hải Thủy, Khuất duy
Trác bị một lần tù thứ hai cả chục năm sau lần tù thứ nhứt, điều CS gọi là
" cải tạo". Nguyên do chánh là do báo chí người Việt hải ngoại vô tình
làm bể lộ việc người viết gởi bài lén ra ngoại quốc. Gần đây một phong
trào đang thịnh hành, nhiều cố gắng được thực hiện để nối mạng giúp các
nhà tranh đấu trong nước nói chuyện và trả lời trực tiếp đồng hương đang
sống và ủng hộ ở ngoại quốc. Nhiều câu hỏi có thể gây nguy hiễm cho người
trả lời và làm lộ bí mật của kế hoạch đấu tranh, nếu được trả lời thẳng
thắn.
Sống lâu tại Mỹ với đủ thứ tự do,
đôi khi một số ít đồng hương không thông cảm được những khó khăn, nguy
hiễm mà những người sống trong rọ CS đang phải chịu đựng. Một lời nói hớ
là lý do để CS qui chụp đày đi tù "cải tạo". Phương chi
những nhà đấu tranh là những mục tiêu thường trực cũa CS . CS chờ bất cứ
sơ hở nào xảy ra để làm tình, làm tội.
Tất cả cuộc điện đàm nói trên đều
dùng bạch thoại, hoàn toàn không được mã hóa một chút nào. Ngay trong các
cuộc điện đàm riêng tư giữa những người thân tín ở ngoài nước với các nhà
đấu tranh trong nước, an ninh truyền tin cũng không bảo đảm. Ai cũng biết
không một cuộc điện đàm, phát thanh nào qua khỏi được lỗ tai của FBI nếu
ở trong và của CIA, DIA nếu ra ngoài nước Mỹ. Ở một chừng mực nào đó,
quyền lợi của Mỹ chưa hẵn phù họp với mục tiêu đấu tranh cho tự do tôn
giáo và nhân quyền. Riêng đối với CSViệt Nam thì khỏi nói, việc kiểm thính
vừa diện vừa điểm, được thực hiện thường xuyên, liên tục do liên ngành an
ninh, quốc phòng, bưu điện. Những đường dây điểm như của các nhà tranh đấu
là mục tiêu tập trung nỗ lực chính của CSï.Do vậy điện thư, thư tín, điện
đàm khó mà lọt khỏi lỗ tai, con mắt của họ.
Trong khi đó, các cuộc phỏng vấn
những nhà tranh đấu từ ngoài nước dù đã dược dặn dò tránh đặt những câu
hỏi tế nhị có thể gây nguy hại cho người va økế hoạch tranh đấu đi nữa,
cũng khó tránh khỏi những câu hỏi chuyên nghiệp của những người làm
truyềân thông và của quần chúng yểm trợ. Truyền thông theo thói quen nghề
nghiệp cố moi cho ra sự thật để phục vụ người đọc và người nghe. Quần
chúng yễm trợ có quyền biết tình hình đấu tranh mình yểm trợ ra sao. Còn
nhà tranh đấu có nhu cầu làm sáng tỏ chánh nghĩa, vận động yễm trợ, nhưng
đồng thời cũng có nhu cầu bảo mật kế hoạch hành động vì mưu bất hoạch sẽ
di hại. Thật là một bài toán khó giải quyết, một xung khắc khó hòa đồng,
thỏa hiệp giữa việc bảo mật an toàn và vận động công khai.
Hơn nữa, gần đây cuộc đấu tranh cho
tự do tôn giáo và nhân quyền đã đi đến giai đoạn vận động chiến. Việc nắm
được kỹ thuật vận động, phổ biến hữu hiệu chính nghĩa, để có đủ yễm trợ
vật chất và tinh thần là chìa khóa thắng lợi. Ðối với quân sư, an ninh,
hành chánh không khó; người không có nhu cầu biết (need to know) thì không
được biết. Nhưng trong vận động chiến, quần chúng là yếu tố thành bại,
phải hiểu biết mới chịu yễm trơ. Ðáp số cho bài toán chỉ có thể tìm ra với
sự tự chế, tương nhượng vì quyền lợi quốc gia dân tộc của quần chúng yễm
trợ và bản lĩnh của những nhà lãnh đạo đấu tranh trong thời đại Tin học,
tin tức thừa mứa này. Và sự thỏa hiệp đầy cảm thông ấy đã thấy trong lời
mào đầu thẳng thắn của những người tổ chức cuộc hội thoại, xin tránh những
câu hỏi có thể gây nguy hại cho an ninh người trong nước hay nguy hại cho
kế hoạch đấu tranh. Có nhiều người điều khiển chương trình còn cẩn trọng
hơn, yêu cầu đặt câu hỏi trên giấy và giao cho ban tổ chức sàng lọc hỏi
dùm, vừa bảo an, vừa bảo mật cho cuộc đấu tranh và người tranh đấu . Cho
đến bây giờ chưa thấy ai phản đối. Thái độ chung tích cực ấy nói lên trình
độ hiểu biết cao về việc bảo mật cho cuộc đấu tranh và niềm thông cảm sau
xa của quần chúng hội thoại đối với người trong nước vì , dễ hiểu, ít nhứt
75% người Việt hải ngoại ở Mỹ xuất thân từ là quân dân cán chính VNCH,
từng có kinh nghiệm bảo mật trong công vụ.
Bù lại những nhà tranh đấu đang đứng
đầu sóng, ngọn gió trong nước cũng tỏ ra bản lĩnh rất cao. Ðã hơn một lần
nhiều vị trả lời bằng cách nói nghe không được, nghe không rõ đối với
những câu hỏi mà việc trả lời sẽ nguy hại cho cá nhân và công cuộc tranh
đấu. Nhà ngoại giao trong trường hơp tương tự thường dùng công thức, "còn
quá sớm để nói," nhưng nhà tranh đấu tại VN không làm thế, khôn khéo gián
tiếp đổ cho việc CS phá đường dây, quây mũi dùi tức bực vào đối phương.
Việc bảo mật trong vận động chiến vừa có tính ngoại giao vừa có tính chính trị, khác với việc bảo mật quân sự và công vụ. Không đơn thuần làm theo điều lịnh bảo mật, ấn định độ mật: kín, mật, tối mật, cất tài liệu trong tủ sắt có hai lần khóa và nút bấm tiêu hủy khi bị đột kích cần rút lui nhanh, và qui định giới chức nào được đọc. Người đấu tranh phải nói mới vận động quần chúng được cũng như nhà ngoại giao, nhà chánh trị phải nói một cái gì khi được phỏng vấn, không ngậm tăm được. Nghệ thuật bảo mật đấu tranh là nói đúng cái cần nói, đúng thời điểm, và khéo léo tránh né những câu hỏi vặn vẹo. Trong mấy tháng nay, từ khi phong trào nối mạng hội thoại giữa người trong nước đấu tranh với đồng hương ngoài nước yễm trợ - chắc chắn CS nghe đủ cả - nhưng chưa có một nguy hại nào xảy ra cho những nhà đấu tranh trong nước do bể lộ. Trái lại hiệu năng của các cuộc hội thoại rất lớn. Tinh thần những nhà đấu tranh trong nước tăng. Quần chúng yễm trợ nước ngoài, khí thế cũng tăng, làm cho người Việt hải ngoại kết họp lại trong mẫu số chung đấu tranh cho tự do tôn giáo và tự do dân tộc. Công lao này thuộc về những người trẻ thầm lặng, thường dấu tên, chịu tốn tiền bạc, công sức kết nối những nhà đấu tranh với các cơ quan phát thanh và báo chí. Công lao nầy thuộc tiến bộ khoa học kỹ thuật của Thời đại Tin học, rút ngắn không gian, đưa con người lại gần nhau, khác với CS lỗi thời tồn tại nhờ bưng bít, nhờ tạo hố sâu ngăn cách giai cấp, chia để trị. Phong trào tranh đấu làm chủ được kỹ thuật thời đại, áp dụng kiến hiệu vào cuộc đấu tranh, sớm hay muộn gì rồi cũng thành công đem thắng lợi lại cho tôn giáo và dân tộc.
Vi Anh
|